Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh ninh bình. thực trạng và giải pháp

  • 67 trang
  • file: .doc

đang tải dữ liệu....

Tài liệu bị giới hạn, để xem hết nội dung vui lòng tải về máy tính.

Tải xuống - 67 trang

Nội dung text: Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh ninh bình. thực trạng và giải pháp

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
LỜI NÓI ĐẦU
Những năm gần đây, nhờ chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước,
đặc biệt là chính sách đổi mới về đối ngoại và kinh tế đối ngoại cùng với xu hướng
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng nhanh ở hầu hết các quốc gia trên
thế giới, ngành du lịch Việt Nam nói chung và ngành du lịch của Ninh Bình nói riêng
cũng có những bước tiến nhất định và ngày càng có tác động tích cực hơn đến nhiều
lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội đất nước. Du lịch được xác định “ là một ngành
kinh tế mũi nhọn” trong các ngành kinh tế quốc dân và đang hội nhập với trào lưu phát
triển du lịch của khu vực và thế giới. Khách du lịch đến Việt Nam đặc biệt là Ninh
Bình đang ngày một tăng. Phát triển du lịch của Ninh Bình là phù hợp với xu thế của
thời đại, phù hợp với chiến lược phát triển du lịch của Việt Nam đặc biệt là chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Với vị trí địa lý và tiềm năng tài nguyên du lịch phong phú, những chính sách
phù hợp, thời gian qua du lịch Ninh Bình đã có bước phát triển đáng ghi nhận, đóng
góp tích cực vào sự nghiệp phát triển du lịch của cả nước. Tuy nhiên trong quá trình
phát triển, nhiều tiềm năng du lịch chưa được khai thác hiệu quả, sự phát triển du lịch
Ninh Bình chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí của mình. Cơ sở hạ tầng, vật chất
kĩ thuật của Tỉnh mặc dù đã được cải thiện rất nhiều trong những năm gần đây nhưng
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, chất lượng phục vụ còn thấp, sản phẩm du
lịch còn nghèo nàn, chưa phong phú. Đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn Tỉnh còn
dàn trải và thiếu tập trung, khả năng thu hút vốn từ các nhà đầu tư không được cao.
Chính vì thế trong thời gian đi thực tập vừa qua, em đã nghiên cứu và viết báo
cáo thực tập, tên đề tài là:
“Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Bình. Thực trạng và giải
pháp.”
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2
Nội dung bài viết gồm 3 phần chính:
Phần một: Tổng quan về tỉnh Ninh Bình và các khu du lịch trong tỉnh
Phần hai: Thực trạng đầu tư phát triển du lịch trong những năm qua
Phần ba: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư vào du lịch tỉnh
Ninh Bình
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TỈNH NINH BÌNH VÀ CÁC KHU DU LỊCH
TRONG TỈNH
I. Đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cực Nam đồng bằng sông Hồng, phía Bắc giáp
tỉnh Hà Nam. Phía Đông giáp tỉnh Nam Định, phía Đông Nam giáp Biển Đông, phía
Tây và Tây Nam giáp tỉnh Thanh Hóa, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hòa Bình. Ninh Bình
cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km, có quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy qua, cùng
với hệ thống sông ngòi phong phú với cảng Ninh Bình nên có điều kiện phát triển
mạnh giao thông cả đường bộ và đường thủy, giao lưu thuận lợi với các địa phương
trong nước và quốc tế.
Toàn bộ lãnh thổ của tỉnh nằm ở rìa Tây Nam đồng bằng sông Hồng, giáp với
đồng bằng sông Mã qua vùng núi thấp Tam Điệp là phần cuối cùng của vùng núi Tây
Bắc, trong khu đệm Hòa Bình – Thanh Hóa và tiếp giáp biển Đông. Do là vùng
chuyển tiếp nên địa hình Ninh Bình khá phong phú, đa dạng, bao gồm cả các núi, đồng
bằng, bờ biển. Đặc biệt là ở Ninh Bình, dạng địa hình Karst khá phổ biến và đây là
dạng địa hình đặc biệt tạo nên các hang động và cảnh quan hấp dẫn, rất có giá trị trong
việc thu hút khách du lịch.
Ninh Bình thuộc đới khí hậu gió mùa chí tuyến, á đới có mùa đông lạnh khô,
mùa hạ có gió mùa Tây Nam gây mưa nhiều. Do địa hình Ninh Bình phần lớn là đồng
bằng, chỉ có một phần nhỏ là đồi núi nên khí hậu ít có sự phân hóa theo lãnh thổ. Nhìn
chung khí hậu Ninh Bình tương đối thuận lợi cho hoạt động du lịch cả năm.
Ninh Bình có mật độ sông ngòi ở mức trung bình. Các sông thường chảy theo
hướng Tây Bắc – Đông Nam. Quan trọng nhất trong mạng lưới sông ngòi ở Ninh Bình
là sông Đáy, ngoài ra còn có sông Hoàng Long là phụ lưu sông Đáy và một số sông
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 4
ngòi nhỏ khác. Tại Ninh Bình còn một số hồ, đầm, tiêu biểu là đầm Cút và dãy hồ
Đồng Thái.
Về các hệ động thực vật, nơi lưu giữ được thảm thực vật và động vật rừng có
giá trị nhất tại Ninh Bình là Vườn quốc gia Cúc Phương. Rừng Cúc Phương là loại
rừng mưa nhiệt đới điển hình với cấu trúc thảm thực vật nhiều tầng và phong phú về
thành phần loài. Gần đây Ninh Bình đã thành lập khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long
là khu bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho hệ sinh thái núi đá ngập nước.
Ninh Bình có tổng diện tích đất tự nhiên là 138. 420 ha, trong đó đất cho sản
xuất nông nghiệp là 67.605 ha ( chiếm 48,87% diện tích tự nhiên), đất lâm nghiệp là
19.972 ha ( chiếm 14,4% diện tích tự nhiên), đất chuyên dùng 16.769 ha ( chiếm
12,1% diện tích tự nhiên), đất khu dân cư 5.068 ha ( chiếm 0,37% diện tích tự nhiên)
và đất chưa sử dụng 28.961 ha ( chiếm 21% diện tích tự nhiên). Hiện nay, diện tích đất
chưa sử dụng có khả năng đưa vào khai thác cho các hoạt động kinh tế là 16.497 ha.
Dân số của Ninh Bình là 936.262 người trong đó số dân trong độ tuổi lao động
xấp xỉ 60%, mật độ dân số 659 người/ km 2. Dân tộc ngoài dân tộc Kinh và dân tộc
Mường chiếm 1,7% dân số thì các dân tộc khác như Tày, Nùng, Thái, Hoa, H’Mông,
Dao…mỗi dân tộc có từ trên một chục đến hơn một trăm người. Dân tộc Mường đã
định cư khá lâu đời ở các xã thuộc miền núi cao như Nho Quan, Tam Điệp, còn lưu
giữ được nhiều giá trị văn hóa truyền thống hấp dẫn du lịch. Các dân tộc khác sống rải
rác ở các địa phương trong tỉnh, không hình thành cộng đồng dân tộc nhất định, đa số
có quan hệ hôn nhân và chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong tục tập quán sinh hoạt, sản
xuất, truyền thống văn hóa của người Kinh.
Trong những năm qua, Ninh Bình đã thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-
xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và XIV đề ra với kết quả năm
sau cao hơn năm trước. Kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng được tăng cường, văn hoá - xã
hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế hàng năm đạt cao; tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn từ năm 1996-2000 đạt
bình quân: 8,12%/ năm; từ năm 2001-2005 bình quân đạt 11,9%/năm; năm 2006 đạt
12,6%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 5
vụ. Thu nhập bình quân đầu người năm 1991 đạt 0,51 triệu đồng, năm 2006 đạt 6,42
triệu đồng, tăng 12,5 lần. Thu ngân sách năm 1991 đạt 24,4 tỉ đồng, năm 2006 đạt 878
tỉ đồng, tăng 35,98 lần.
Về nông nghiệp: tỉnh đã tập trung chỉ đạo chuyển được gần 9000 ha đất nông
nghiệp trồng cây có giá trị thấp sang nuôi trồng các loại cây, con có giá trị kinh tế cao
như: nuôi tôm sú, trồng cói ở Kim Sơn, nuôi tôm càng xanh, trồng dứa ở Tam Điệp,
Nho Quan, nuôi thả cá chim trắng ở Gia Viễn, Hoa Lư, cấy các giồng lúa đặc sản: tám,
nếp, dự... ở Kim Sơn, Yên Khánh.... Cả tỉnh có 294 trang trại mỗi năm doanh thu bình
quân từ 20 triệu đồng trở lên.
Về công nghiệp: tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 22 khu công nghiệp, cụm công
nghiệp với diện tích 880 ha trong đó có các khu công nghiệp, cụm công nghiệp lớn
như: khu công nghiệp Tam Điệp, khu công nghiệp Ninh Phúc, cụm công nghiệp Gián
Khẩu.... Ninh Bình đã ban hành các cơ chế, chính sách như: chính sách khuyến khích,
ưu đãi đầu tư vào các khu công nghiệp, khu du lịch; chính sách khuyến khích tài năng
thu hút nhân tài; quỹ khuyến công ; quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển. Trên địa bàn tỉnh đã
khởi công nhiều công trình lớn về giao thông, thuỷ lợi, du lịch, thể thao như: hồ Yên
Thắng; dự án phân lũ, chậm lũ Nho Quan và Gia Viễn; sân vận động, Nhà thi đấu
trung tâm; Nhà máy cán thép Tam Điệp công suất 36 vạn tấn/ năm; Nhà máy xi măng
Tam Điệp công suất 1,4 triệu tấn/ năm....Các công trình đầu tư trên lần lượt đưa vào sử
dụng sẽ tạo ra bước chuyển biến mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Các hoạt động
dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, bảo hiểm, tín dụng, du lịch... đều đạt mức tăng
trưởng bình quân trên 25%/ năm. Thu ngân sách tăng bình quân trên 20%/ năm
II. Tài nguyên du lịch của tỉnh
1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
♦ Vườn quốc gia Cúc Phương
Cúc Phương là vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam, thành lập vào ngày
7/7/1962. Vườn quốc gia Cúc Phương có một quần thể hệ động thực vật vô cùng
phong phú, đa dạng và độc đáo. Vườn có diện tích 22.000 ha, trong đó ¾ là núi đá vôi
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 6
cao từ 300 đến 600m so với mặt biển. Địa hình phức tạp, rừng ở dạng nguyên sinh
chứa nhiều bí ẩn và cảnh quan độc đáo. Tại đây có nhiều chứng tích văn hóa lâu đời
như động Trăng Khuyết, động Chúa, động Thủy Tiên, động Người Xưa, hang Con
Moong, động San Hô.
Trong vườn có suối nước nóng, hệ động thực vật phong phú, đặc biệt có những
cây chò xanh, cây sấu cổ thụ trên dưới 1000 tuổi và những loài thú quí, lạ. Hiện nay,
vườn quốc gia Cúc Phương đã trở thành môt trung tâm cung cấp các lòai thực vật quí
hiếm, có giá trị kinh tế cao phục vụ cho chương trình trồng rừng trong khu vực và trên
cả nước.
♦ Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long
Là khu bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho hệ sinh thái núi đá ngập nước có diện
tích lớn nhất ở đồng bằng sông Hồng. Đây cũng là nơi khoanh vùng bảo vệ loài Vọoc
quần đùi trắng – là loài linh trưởng quí hiếm đã ghi trong Sách đỏ thế giới. Rừng Vân
Long có 8 loài thực vật, 9 loài động vật được ghi trong Sách đỏ Việt Nam.
Khu Vân Long có 32 hang động đẹp, nhiều hang động có giá trị. Nước ở đây
mênh mông phẳng lặng, không có gió to sóng lớn, mang phong cảnh một miền quê êm
ả - một Vịnh Hạ Long không song. Đây chính là một nơi du lịch sinh thái rất tốt, là
hiện trường nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học, sinh viên khi muốn nghiên cứu
về vùng đất ngập nước nội đồng của Việt Nam.
♦ Quần thể hang động Tràng An
Nằm ở thôn Tràng An, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, với những dải đá vôi,
các thung lũng và những dòng sông ngòi đan xen với nhau tạo nên một không gian
huyền ảo và thơ mộng. Du khách đến bến thuyền sông Sào Khê, từ đây những chiếc
thuyền nan lướt nhẹ trên mặt nước qua Xuyên Thủy Động vào đến quần thể hang
động Tràng An. Hai bên dòng sông là những phong cảnh hữu tình mà thiên nhiên đã
ban tặng nơi đây.
♦ Tam Cốc
Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động là một quần thể du lịch, một địa danh nổi
tiếng từ xa xưa, thuộc địa phận huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình; cách thủ đô Hà Nội
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 7
100 km về phía Nam. Nơi đây vẫn giữ được nét nguyên sơ, thiên tạo, với nhiều hang
động, di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước như: đền Thái Vi, Tam
Cốc, chùa Bích Động, động Tiên, chùa Linh Cốc…
Tam Cốc nghĩa là ba hang: hang Cả, hang Hai và hang Ba. Du khách đi thăm
Tam Cốc chỉ có một con đường thủy duy nhất vào ra mất khoảng hai tiếng đồng hồ.
Những du khách ưa thích mạo hiểm có thể tiếp tục xuôi thuyền theo dòng Ngô Đồng
khoảng 2 km nữa tới thăm suối Tiên và tham gia chuyến du lịch mạo hiểm leo núi vào
đền Nội Lâm.
♦ Động Địch Lộng
Động thuộc huyện Gia Viễn, được nhân dân phát hiện từ năm 1739. Đến năm
1740 động được nhân dân trong vùng tu bổ thành một ngôi chùa để thờ Phật. Động
rộng chừng 10 gian nhà, trong động được bày nhiều tượng Phật, tượng La Hán, tượng
Hộ pháp đặt trên các bệ đá. Đặc biệt còn có 2 tượng phật được tác bằng đá xanh
nguyên khối, rất đẹp. Động gồm có 3 hang nối liền nhau, hang ngoài thờ Phật, rồi đến
hang Tối, hang Sáng. Cảnh đẹp của Địch Lộng được vua Minh Mạng ban tặng cho 5
chữ: “ Nam thiên đệ tam động” – Động đẹp thứ 3 trời Nam.
♦ Động Tiên
Động nằm ở huyện Hoa Lư, cách Bích Động gần 1km. Động gồm có 3 hang
lớn, rộng và cao vời vợi. Trần động là vân đá, nhũ đá rủ xuống lấp lánh nhiều màu sắc.
Nhiều khối nhũ đá từ trên trần rủ xuống nền động cao hơn chục mét tựa như những rễ
cây đa cổ thụ. Xung quanh vách động và trên nền cũng có rất nhiều măng đá, nhũ đá.
Những nhũ đá được thiên nhiên chạm trổ vừa phóng khoáng, vừa tinh xảo mà sống
động. Đứng bên ngoài nhìn vào, dưới ánh sáng kì ảo, động Tiên như một lâu đài nguy
nga tráng lệ trong huyền thoại.
♦ Động Sinh Dược
Thuộc địa phận huyện Gia Viễn, là một động xuyên thủy dài gần 2km chạy dài
theo lòng núi Mắt Rồng, hai đầu hang là hai thung lũng rộng. Vào động bằng 1 trong 2
cửa: lối thứ nhất qua cửa hang Vồng – thung Nước và lối thứ hai là cửa hang thung
áng Nhồi. Hang Vồng là một chiếc cống bằng đá, mái uốn vòm cong tựa một chiếc cầu
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 8
vồng nhỏ bắc trên một dòng suối trong mát lạnh. Thung áng Nhồi là một lòng thung
rộng khoảng 3 ha, xung quanh là cây và hoa rừng, những thảm cỏ xanh mướt, không
khí trong lành.
♦ Đèo Tam Điệp
Đèo Tam Điệp còn có tên là đèo Ba Dội, thuộc thị xã Tam Điệp, cách thành
phố Ninh Bình 18km về phía Nam. Nơi đây có 3 dãy núi đá vôi chạy suốt từ Hòa Bình
về, ăn ra biển Đông theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Điều độc đáo là Đèo Tam Điệp
có đất đỏ. Từ đây du khách có thể quan sát cả một vùng rộng lớn. Toàn cảnh đèo là
những dãy núi hung vĩ, hiểm trở, quanh co như những con rồng uốn khúc, đan xen là
những thung lũng rộng và nhiều dòng suối trong xanh uốn lượn. Ngoài ra Đèo Tam
Điệp còn là một phòng tuyến lợi hại , có vị trí chiến lược trong quân sự, như bức tường
thành thiên nhiên án ngữ con đường Bắc Nam
♦ Suối nước nóng Kênh Gà
Suối nước nóng mặn Kênh Gà thuộc huyện Gia Viễn. Dòng nước từ trong núi
chảy ra, trong vắt, chưa bao giờ ngừng. Năm 1940 người Pháp biết tới, bắt đầu nghiên
cứu và đi vào khai thác. Nước khoáng Kênh Gà có chứa nhiều muối Natriclorua,
Kaliclorua, nước không màu, trong, nhiệt độ ổn định quanh năm 53 0C. Nước khoáng
Kênh Gà dùng để tắm hay ngâm mình nhiều lần sẽ khỏi các bệnh như khớp mãn tính,
viêm dây thần kinh, các bệnh ngoài da và phụ khoa. Nước khoáng Kênh Gà uống vào
có tác dụng kích thích hoạt động của gan, mật, chữa bệnh bướu cổ và dùng để bào chế
huyết thanh tiêm tĩnh mạch.
♦ Động Vân Trình
Động rộng gần 3500m2, là một động lớn nhất và đẹp nhất tỉnh Ninh Bình, sánh
ngang với động Thiên Cung ở vịnh Hạ Long ( Quảng Ninh). Động nằm trong núi Mõ,
tên chữ thời xưa là núi Thổ Tích, thuộc huyện Nho Quan. Động Vân Trình gồm 2 hang
liền nhau, so le một cao một thấp là Hang Cả và Hang Hai. Trong cả hai hang đều có
những nhũ đá đẹp như những “ vách gấm”, nhiều khối nhũ đá từ trên nóc động chảy
xuống, có khối chạm đến nền hang, như những nhánh rễ cây đa cổ thụ to lớn thả xuống
mặt đất. Động Vân Trình còn giữ được nét đẹp trinh nguyên, tinh khiết của đá.
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 9
♦ Hồ Đồng Chương
Là một hồ nước trong nằm giữa hai xã Phú Lộc và Phú Long, huyện Nho Quan.
Xung quanh hồ là những dải đồi thông xanh mướt, nhấp nhô, trùng điệp vây phủ lấy
mặt hồ làm cho nước hồ đã xanh lại càng thêm xanh. Gần hồ có thác Ba Tua và dòng
Chín Suối. Đi thăm hồ và leo lên đến đỉnh du khách sẽ gặp được một hồ nước nhỏ gọi
là Ao Trời, cũng trong xanh và không bao giờ cạn nước. Hồ Đồng Chương được ví
như Đà Lạt của Ninh Bình.
♦ Hồ Đồng Thái
Nằm trên địa bàn hai xã Đông Sơn ( thị xã Tam Điệp) và Yên Đồng ( huyện
Yên Mô), có diện tích rộng hơn 380 ha được bao bọc bởi dãy núi Tam Điệp hùng vĩ
và con đê trải dài hơn 10km. Hồ có trữ lượng hơn 8.000.000 m 3 nước với hàng trăm
loài động vật, thực vật thủy sinh. Hồ không chỉ phục vụ cho tưới tiêu nông nghiệp,
nuôi trồng thủy sản mà còn là một điểm du lịch sinh thái lý tưởng.
♦ Núi chùa Bái Đính
Núi Bái Đính thuộc địa phận huyện Gia Viễn. Núi Bái Đính cao 200m sừng
sững giữa vùng bán sơn địa, với diện tích gần 150.000 m 2, được tạo thành bởi hai dãy
núi khép lại hình cánh cung và hướng về phía tây - tựa như tay ngai, mở ra một thung
lũng rộng hơn 3 ha - gọi là Thung Chùa. Lên thăm hang động ở núi Bái Đính, bước
trên 300 bậc đá đước xếp theo độ dốc vừa phải. Lên hết dốc là tới ngã ba: Bên phải là
động thờ Phật, bên trái là động thờ Tiên. Phía trên Động thờ Phật ( hay còn gọi là
Động Sáng) có 4 chữ đại tự khắc trên đá: “Minh Đỉnh Danh Lam” có nghĩa là: “Lưu
Danh Thơm Cảnh Đẹp”. Động Tiên lớn hơn động Phật nhiều lần, gồm 7 hang.
Khu núi chùa Bái Đính mới đang được qui hoạch đồng bộ và nổi tiếng bởi 5
cái nhất: chuông to nhất, nhiều tượng La Hán nhất, chùa lớn nhất, tượng phật to nhất,
khuôn viên rộng nhất. Khu núi chùa Bái Đính mới gồm có điện Tam Thế, chùa Pháp
Chủ, cổng Tam Quan, chùa Quan Âm, La Hán Đường, Tháp Chuông, khu hồ phóng
sinh,…
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 10
♦ Hệ sinh thái ven biển Kim Sơn
Với 18km đường bờ biển nơi có cửa sông đổ ra với sự hình thành 2 cồn nổi
( Cồn Thoi và Hòn Nẹ), thảm thực vật ngập mặn đã hình thành nơi cư trú của nhiều
loài sinh vật, đặc biệt là một số loài chim di cư quí hiếm như Cò Thìa,…
2. Tài nguyên du lịch nhân văn
2.1. Các di tích lịch sử - văn hóa
♦ Cố đô Hoa Lư
Cố đô Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nền phong kiến tập quyền ở nước ta,
thuộc huyện Hoa Lư, nằm trên một diện tích khoảng 400ha.
Ngàn năm trước, Hoa Lư là đế đô nguy nga với núi đồi trùng điệp xung quanh
kinh đô như tấm bình phong, sông Hoàng Long và cánh đồng Nho Quan, Gia Viễn
mênh mông là hào sâu thiên nhiên rất thuận lợi về mặt quân sự. Khu thành Hoa Lư có
qui mô rộng lớn, có nhiều tuyến liên hoàn. Thành gồm hai khu, khu trong và khu
ngoài, thông với nhau bằng một lối đi nhỏ hẹp và hiểm trở. Mỗi khu gồm nhiều vòng,
nhiều tuyến nhỏ.
♦ Đền vua Đinh
Đến thờ vua Đinh Tiên Hoàng, hiện ở xã Trường Yên, huyện Hoa Lư. Đền
quay hướng Đông, trên khuôn viên rộng khoảng 5 mẫu, được xây dựng vào khoảng thế
kỉ 17, lấy núi Mã Yên làm án. Đền vua Đinh Tiên Hoàng kiến trúc theo kiểu "nội công
ngoại quốc", đường đi trong đền theo hình chữ "vương". Các công trình kiến trúc đối
xứng nhau theo đường chính đạo, tên gọi phỏng theo tên gọi của cung điện ngày xưa.
♦ Đền vua Lê
Đền thờ vua Lê Đại Hành, hiện ở làng Trường Yên Hạ, xã Trường Yên, huyện
Hoa Lư, cách đền vua Đinh chừng 300m về phía Bắc, cũng xây dựng trên nền cung
điện xưa của kinh đô Hoa Lư. Đền ở làng Trường Yên Hạ nên gọi là đền Hạ. Đền lấy
núi Đèn làm án. Kiến trúc của đền xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc", có thêm
Từ Vũ.
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 11
♦ Nhà thờ đá Phát Diệm
Cách thành phố Ninh Bình 28km, Nhà thờ toạ lạc trên một khu đất rộng khoảng
117m, dài 243m, giữa trung tâm thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn. Nhà thờ là một
kiệt tác về kiến trúc do cha Phê Rô Trần Lục (quen gọi là cụ Sáu) xây dựng trong suốt
24 năm (1875 - 1899) với vô vàn khó khăn, phương tiện làm việc thô sơ. Đây là một
quần thể kiến trúc kiểu Đình chùa Phương Đông, kết hợp với lối kiến trúc Gôtic của
nhà thờ Phương Tây. Quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm được xây dựng nhiều hạng mục
khác nhau như: ao hồ, tượng đài, Phương Đình, Nhà thờ lớn, Nhà nguyện kinh thánh
Rô Cô, Nhà nguyện kinh trái tim chúa, Nhà nguyện kinh thánh Giu-Se, Nhà nguyện
kinh thánh Phê-Rô và các hang đá nhân tạo...
♦ Đền Thái Vy
Đền thờ Trần Nhân Tông, hoàng hậu Thuận Thiên và Trần Thánh Tôn, hiện ở
xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư.
♦ Đền đức Thánh Nguyễn
Đền thờ quốc sư Nguyễn Minh Không hay còn được gọi là Lý Quốc Sư, tọa lạc
tại huyện Gia Viễn. Đền đức Thánh Nguyễn vốn là một ngôi chùa nhỏ do chính ông
xây dựng, khoảng năm 1121 và đặt tên là Viên Quang. Đền được xây dựng trên một
khu đất rộng gần 2 mẫu.
2.2. Các lễ hội
♦ Lễ hội Trường Yên: Hội được tổ chức từ 10 – 13 tháng 3 âm lịch hàng năm tại xã
Trường Yên, huyện Hoa Lư để tưởng nhớ công đức vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê
Đại Hành.
♦ Lễ hội đền Thái Vy: Hội được tổ chức hàmg năm từ ngày 14-17 tháng 3 âm lịch tại
xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Đây là dịp nhân dân Ninh Bình và cả nước tưởng nhớ
công lao của các vua Trần, những người có công lớn với đất nước.
♦ Lễ hội đền Địch Lộng: Được tổ chức vào ngày mùng 6,7 tháng 3 âm lịch, tại chùa
Địch Lộng thuộc xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn.
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 12
♦ Lễ hội chùa Bái Đính: Được tổ chức vào mùng 6 tháng giêng âm lịch hàng năm tại
thôn Sinh Dược, xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn
♦ Lễ hội Báo bản Nộn Khê: Được tổ chức vào ngày 14 tháng giêng âm lịch hàng năm,
tại làng Nộn Khê, xã Yên Từ, huyện Yên Mô.
♦ Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ: Tổ chức ngày 13-15 tháng 11 âm lịch hàng năm, tại
xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn. Ngày 13 tế yết cáo, ngày 14 tế chính kị, ngày 15 tế
tạ.
2.3. Các làng nghề truyền thống
♦ Thêu ren Ninh Hải: Nghề thêu ren ở đây đã có trên 700 năm. Tương truyền năm
1285 bà Trần Thị Dung là vợ Thái sư Trần Thủ Độ đã theo triều đình nhà Trần về đây
và truyền dạy cho nhân dân thôn Văn Lâm nghề thêu ren. Đường nét thêu ren rất tinh
xảo nhưng sống động. Sản phẩm thêu ren rất phong phú: ga trải giường, rèm cửa, gối,
khăn bàn, tranh, ảnh,…
♦ Mỹ nghệ cói Kim Sơn: Cây cói xuất hiện ở Kim Sơn mới gần 2 thế kỉ nhưng chiếm
một vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của người dân nơi đây. Người dân Kim
Sơn dùng cây cói làm nhiều sản phẩm như: chiếu, thảm, làn, khay, hộp, cốc, mũ,…đặc
biệt là nghề dệt chiếu
♦ Chạm khắc đá Ninh Vân: Đây là làng nghề cổ truyền được cả nước biết đến. Sản
phẩm bao gồm nhiều loại, như tượng, chim, thú, bể cảnh, bia, thống, chậu hoa, xà nhà,
…Ngoài ra còn có các mặt hàng thủ công mĩ nghệ và những đồ vật bằng đá như: bộ
ấm trà, gạt tàn thuốc lá, khóm trúc, bé cưỡi trâu, tranh ảnh.
2.4. Ẩm thực
Bên cạnh những món ăn của vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ, ẩm thực Ninh
Bình có đặc trưng riêng. Đó là: Tái dê Ninh Bình, Nhất hưởng thiên kim (cơm cháy),
Nem Yên Mạc ( Yên Mô), Rượu Lai Thành, Mắm tép Gia Viễn, Rượu cần Nho Quan
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 13
Tỉnh Ninh Bình định hướng tổ chức các khu du lịch:
1. Khu du lịch Tam Cốc - Bích Ðộng, Tràng An, núi chùa Bái Đính và Cố đô Hoa
Lư: Du lịch Văn hóa, lễ hội, tâm linh; Du lịch nghiên cứu; Du lịch tham quan, thắng
cảnh; Du lịch cuối tuần.
2. Khu du lịch trung tâm thành phố Ninh Bình với Dục Thuý Sơn, Ngọc Mỹ Nhân
và hồ Kỳ Lân: Du lịch Văn hóa, Du lịch MICE, Du lịch vui chơi giải trí, Du lịch đô
thị.
3. Khu du lịch vườn quốc gia Cúc Phương, Kỳ Phú, hồ Ðồng Chương: Du lịch sinh
thái, Du lịch thể thao, Du lịch tham quan, nghiên cứu, Du lịch nghỉ dưỡng.
4. Khu du lịch Suối nước nóng Kênh Gà - động Vân Trình, Vân Long, chùa Ðịch
Lộng: Du lịch Sinh thái, Du lịch Văn hóa- Lịch sử, Du lịch nghỉ dưỡng- Chữa bệnh
5. Khu du lịch phòng tuyến Tam Ðiệp - Biện Sơn: Du lịch Văn hóa – Lịch sử; Du
lịch Thể thao- Vui chơi giải trí
6. Khu du lịch hồ Yên Ðồng, Yên Thắng, động Mã Tiên, cửa Thần Phù: Du lịch Vui
chơi giải trí; Du lịch Thể thao; Du lịch nghỉ dưỡng vãn cảnh.
7. Khu du lịch quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm và khu dự trữ sinh quyển ngập mặn
Kim Sơn: Du lịch Văn hóa tín ngưỡng; Du lịch Tham quan nghiên cứu; Du lịch Biển-
ẩm thực hải sản.
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 14
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRONG
NHỮNG NĂM QUA
I.Thực trạng đầu tư vào ngành du lịch của tỉnh
1. Thực trạng cơ sở hạ tầng phục vụ cho ngành du lịch của tỉnh
1.1. Hệ thống giao thông
Mạng lưới giao thông trên địa bàn tỉnh những năm gần đây đã được xây dựng
tương đối hợp lí, rộng khắp toàn tỉnh ô tô đi được tới tất cả các xã trong tỉnh, việc đi
lại thuận tiện, nhanh chóng. Toàn tỉnh hiện có 2.278,2km đường bộ và 496 km đường
sông với các tuyến quan trọng nối liền thị xã với các huyện thị và tỏa đi các xã. Các
tuyến đường từ tỉnh xuống huyện được nâng cấp rải nhựa. Mạng lưới giao thông của
Tỉnh được phân bố tương đối đều: đường sắt, đường bộ, đường thủy.
‫٭‬Đường bộ: bao gồm hệ thống đường quốc lộ, tỉnh lộ, đường huyện, liên huyện,
đường xã và liên xã với tổng chiều dài 2.278,2 km. Ngoài quốc lộ 1A , trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình còn có các tuyến quốc lộ chạy qua như 10, 12B, 45, trong đó:
Đường quốc lộ: có 110,5 km
Đường tỉnh lộ: có 261,5 km
Đường huyện lộ: có 194,92 km
Đường xã, liên xã: có tổng chiều dài 911,5 km
Hiện nay mạng lưới giao thông đang được cải thiện ngày một tốt hơn. Tuy
nhiên hệ thống giao thông vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Hệ thống các đường nội thị vẫn còn yếu kém, nhiều tuyến đường cần được cải tạo và
mở rộng. Đặc biệt cần nâng cấp, cải tạo toàn tuyến 1A trên địa bàn tỉnh nhất là đoạn đi
qua thành phố Ninh Bình. Đây chính là tuyến đường chủ đạo trong giao lưu kinh tế
giữa Ninh Bình với các tỉnh phía Bắc cũng như phía Nam, đáp ứng nhu cầu vận
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 15
chuyển hàng hóa và hành khách qua Ninh Bình ngày càng lớn. Hệ thống giao thông
nông thôn, đường liên thôn liên xã đã được nâng cấp, rải nhựa, cải tạo và làm mới.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khai thác thế mạnh của vùng, nhằm phát
triển kinh tế, nâng cao mức sống người dân đặc biệt là mở rộng giao lưu với các địa
phương trong tỉnh, phát triển các tour liên huyện.
‫ ٭‬Đường sắt: Ninh Bình nằm trên tuyến đường sắt quốc gia Bắc Nam, đây là tuyến
đường sắt đóng góp một phần rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh và
các địa phương khác trong vùng kinh tế và trên toàn quốc. Toàn tỉnh có 4 ga là : ga
Ghềnh, ga Đồng Giao, ga Cầu Yên và ga Ninh Bình. Ngoài ra tuyến tàu chạy Hà Nội –
Vinh đi qua Ninh Bình đi các tỉnh phía Nam.
‫٭‬Đường thủy: Ninh Bình có 22 sông có thể khai thác vận tải đường thủy với tổng
chiều dài 387,3km. Mật độ sông là 27,3km/km2 ( lớn hơn mật độ bình quân cả nước),
phần lớn là sông cấp II, III và IV mang đặc điểm chung của sông, kênh khu vực đồng
bằng sông Hồng. Toàn tỉnh có các sông chảy qua là sông Đáy, sông Hoàng Long, sông
Vạc, sông Vân, sông Lạng,.. giúp cho Ninh Bình có điều kiện thuận lợi và là đầu mối
quan trọng trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng và
toàn vùng Bắc Bộ rộng lớn.
1.2. Hệ thống cấp điện
Mạng lưới điện trong cả tỉnh đã được xây dựng với tổng chiều dài các đoạn
đường dãy trung cao áp là 770km. Hiện nay Tỉnh có 1 nhà máy điện Ninh Bình và 4
trạm điện phân phối. Nguồn điện hiện nay bao gồm cả mạng lưới điện phân phối về cơ
bản có thể đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt.
1.3. Hệ thống cấp thoát nước và vệ sinh môi trường
Trong những năm gần đây tỉnh Ninh Bình đã từng bước phát triển đảm bảo
nước sinh hoạt cho vùng đô thị ( thành phố Ninh Bình, thị xã Tam Điệp và các thị trấn,
huyện lỵ). Các công trình cấp nước: giếng đào, bể chứa nước, nước tự chảy và giếng
khoan. Trong đó các khu tập trung dân cư và các khu vực thị trấn chủ yếu dùng nước
tự chảy và nước cấp từ bể chứa. Khả năng cung cấp nước trung bình vào mùa hè là
16.000 m3/ngày; vào mùa đông 14.000m3/ngày. Tổng số hộ gia đình được dùng nước
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 16
sạch trong toàn tỉnh là 26.000 hộ. Trữ lượng nguồn nước ngầm của tỉnh Ninh Bình là
tương đối lớn, việc khai thác nguồn nước ngầm tương đối thuận lợi. Về chất lượng,
nguồn nước này đảm bảo vệ sinh đủ tiêu chuẩn cần thiết để sử dụng cho ăn uống và
sinh hoạt.
Mạng lưới thoát nước thải sinh hoạt tại các đô thị của tỉnh sử dụng hệ thống
thoát chung ( cho cả nước mưa và nước thải sinh hoạt). Hệ thống thoát nước mưa bao
gồm các lọai ống tròn bê tông cốt thép, cống hộp và mương có nắp đan. Nhìn chung
các tuyến thoát nước đều hoạt động tốt nhưng do mật độ còn quá thấp chưa đáp ứng
được nhu cầu nên ảnh hưởng không ít đến môi trường đô thị. Các lọai nước thải hầu
không được xử lí đến giới hạn cho phép và thường được xả trực tiếp ra sông suối.
Nước thải công nghiệp từ các nhà máy xi măng, nhà máy phân lân chưa được xử lí đến
độ trước khi xả ra sông suối. Nước thải bệnh viện được xử lí riêng đơn giản và xả vào
hệ thống thóat nước chung, phần lớn là hơn giới hạn cho phép. Lượng thu gom rác thải
để xử lí còn nhỏ. Các loại rác thải được xử lí chung, chôn lấp tự do. Chính vì thế, hiện
nay UBND tỉnh đã phê duyệt dự án và đang triển khai thi công xây dựng nhà máy xử lí
rác thải với công suất 2200 tấn/ngày.
1.4. Hệ thống bưu chính viễn thông
Mạng lưới thông tin liên lạc đã phủ kín các vùng trong tỉnh với hệ thống tổng
đài điện tử hiện đại của bưu điện trung tâm tỉnh và bưu điện của 7 huyện thị xã, hệ
thống viễn thông vi ba, cáp quang Bắc – Nam chạy qua đảm bảo cho liên lạc nhanh
chóng thuận tiện giữa Ninh Bình và các địa phương, các vùng trong nước và liên lạc
quốc tế.
Hệ thống bưu cục: 32 trạm. Các tuyến, trạm truyền thông tin: 25 tuyến, trạm. Hiện
toàn tỉnh có khoảng 6,6 máy điện thoại/ 100 dân. Mạng điện thoại di động đã phủ sóng
gần hết lãnh thổ Ninh Bình. Đến cuối 2005 đã có 112 xã có điểm bưu điện văn hóa xã
( đạt 82%).
1.5. Hệ thống dịch vụ tài chính, ngân hàng
Các cơ sở dịch vụ về tài chính, ngân hàng của Ninh Bình bao gồm hệ thống
ngân hàng nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh, hệ thống kho bạc từ tỉnh đến các
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 17
huyện, thị xã, công ty bảo hiểm, các quĩ tín dụng nhân dân… Hệ thống các cơ sở dịch
vụ này hiện tại thường xuyên được cải tiến về nghiệp vụ chuyên môn và phong cách
phục vụ, tăng cường trang bị kĩ thuật hiện đại, thực hiện vi tính hóa trong quản lí và
thanh toán… đang ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vốn cho sản xuất – kinh
doanh, đáp ứng tốt hơn các công tác thanh toán, trao đổi hàng hóa – dịch vụ; phục vụ
kịp thời cho công tác lãnh đạo, quản lí của các cấp, các ngành; góp phần tích cực cho
phát triển kinh tế, caỉ thiện đời sống nhân dân trong tỉnh.
1.6. Hệ thống nhà hàng, khách sạn
Thời gian qua, với vị thế đã có và khai thác có hiệu quả tiềm năng phong phú
về tài nguyên phục vụ phát triển du lịch, Ninh Bình đã dần khẳng định du lịch là một
ngành kinh tế quan trọng của tỉnh, nhiều công trình cơ sở hạ tầng được xây dựng, tu bổ
tôn tạo để phục vụ phát triển du lịch. Hạ tầng Ninh Bình thay đổi mạnh mẽ và nhanh
chóng, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội và đặc biệt là hoạt động du
lịch.
Cùng với xu hướng chung của cả nước hiện nay, do lượng khách quốc tế ngày
càng tăng và khách nội địa có nhu cầu đi nghỉ nhiều hơn nên các khách sạn nhà trọ
được xây dựng thêm để đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách du lịch. Ngành du lịch
Ninh Bình cũng không ngừng nâng cấp, xây mới khách sạn, nhà nghỉ phục vụ khách
du lịch. Số lượng khách sạn, nhà nghỉ của các thành phần kinh tế tăng nhanh cả về số
lượng và qui mô và phương thức hoạt động.
Năm 1992, toàn tỉnh chỉ có duy nhất 1 khách sạn Hoa Lư được tách ra từ công
ty du lịch Hà Nam Ninh với 33 phòng nghỉ. Hiện tại, Ninh Bình có 290 cơ sở lưu trú
du lịch trong đó có 67 khách sạn với 1.680 phòng ngủ ( có 359 phòng đạt tiêu chuẩn
quốc tế); 8 bể bơi, 1 sân golf, 48 sân tennis, 82 phòng xông hơi - massage - vật lí trị
liệu và 128 cơ sở phục vụ ăn uống với 9.107 chỗ ngồi. Trong đó có 7 cơ sở với 266
buồng đã được thẩm định đạt tiêu chuẩn 2 sao và 1 cơ sở với 17 buồng đạt tiêu chuẩn
1 sao. Công suất sử dụng khách sạn bình quân đạt khoảng 50%. Qui mô xây dựng hầu
hết là vừa và nhỏ, trang thiết bị nội thất chưa đồng bộ. Nhìn chung chất lượng của các
khách sạn của tỉnh còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách du
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 18
lịch, đặc biệt là khách du lịch thương mại. Giá phòng trung bình của các cơ sở lưu trú
trên địa bàn tỉnh cũng không cao lắm. Mức giá tương đối cạnh tranh so với hầu hết các
địa phương khác trong vùng.
Bảng 2.1. Cơ cấu cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2004-2008
Đơn vị 2004 2005 2006 2007 2008
Cơ sở lưu trú Cơ sở 60 76 222 244 290
- Số lượng phòng Phòng 815 883 1277 1407 1680
- Số lượng giường Giường 937 1600 3300 3600 4100
Phân theo loại hình Cơ sở
- Khách sạn Cơ sở 28 38 47 57 67
- Nhà hàng, nhà nghỉ Cơ sở 20 30 36 38 48
Nguồn: Cục thống kê Ninh Bình
Trong năm 2008, cả tỉnh có 10 cơ sở lưu trú mới xây dựng. Trong đó có 1
khách sạn 1 sao, 1 khách sạn 2 sao với tổng số vốn là 50 tỷ đồng. So với nhu cầu thực
tế, khả năng đáp ứng về cơ sở lưu trú của Ninh Bình còn rất thiếu, nhất là các cơ sở
lưu trú cao cấp.
2. Vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư
2.1. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường không mang lại những lợi ích kinh tế cụ thể
hay thời gian thu được lợi nhuận là rất dài, đồng thời đây là lĩnh vực yêu cầu nguồn
vốn khá lớn. Chính vì vậy các nhà đầu tư thường không đủ khả năng hoặc không mong
muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Nhưng cơ sở hạ tầng lại là yếu tố tiên quyết để phát
triển kinh tế - xã hội. Vậy để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Nhà
nước có vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết nguồn vốn. Trong thời gian qua,
những công trình lớn, trọng điểm đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường là do Nhà nước đầu
tư. Sự hỗ trợ từ ngân sách, kết hợp cả nguồn vốn địa phương và nguồn vốn đầu tư phát
triển hạ tầng du lịch của Trung ương thật sự là “xúc tác” góp phần quan trọng trong
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 19
việc tạo ra môi trường thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế.
Tỉnh Ninh Bình có nguồn tài nguyên du lịch phong phú nhưng với ngân sách địa
phương eo hẹp nên những năm trước đây đã không cho phép tỉnh đầu tư phát triển
trong lĩnh vực này. Từ năm 2000 đến nay, với nguồn vốn hỗ trợ của Ngân sách Trung
Ương nhiều dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ chiến lược phát triển du lịch đã được
triển khai.
Bảng 2.2. Tổng hợp các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ 2001-2008
Đơn vị: Triệu đồng
Vốn giải ngân
Thời gian Dự toán đến
Chỉ tiêu thực hiện được duyệt 31/12/2008
I. Ngân sách địa phương: 5.384 4,335
2004-
1. XD Trụ sở làm việc của Sở Du lịch 2005 5.181,6 4,185.20
2. Qui hoạch khu DL Kênh Gà - Vân
Trình 2004 102,4 50
3. Bổ sung Qui hoạch Khu DL Tam 2005-
Cốc- Bích Động 2006 100 100
II. Ngân sách Trung ương 4.119.121 908.919,6
1.Khu du lịch Kênh Gà, Vân Trình, 2002-
Vân Long 2007 43.289 21.300,6
2003-
2.Khu DL vườn QG Cúc Phương 2008 36.619 36.619
3.Khu DL Tam Cốc Bích Động, Tràng 2008-
An 2010 4.020.257 836.000
4. XD CSHT Khu DL các làng nghề 2002-
truyền thống 2006 18.956 15.000
Tổng số 4.124.505 913.254,6
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao – Du Lịch Ninh Bình
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 20
Tính đến 31/12/2008, cơ sở hạ tầng của du lịch Ninh Bình đã được đầu tư
913,2546 tỷ đồng tập trung vào 11 dự án, bằng 29,1% tổng mức đầu tư đã được duyệt.
Trong đó vốn đầu tư từ Ngân sách Trung ương là 908,9196 tỷ đồng, riêng khu du lịch
Tràng An được xác định là điểm nhấn quan trọng để thu hút khách du lịch đến Ninh
Bình. Cùng với đó Tỉnh phối hợp với Viện Kiến trúc nhiệt đới – Trường Đại học Kiến
trúc Hà Nội từng bước hoàn chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Ninh Bình
giai đoạn 2007 – 2015, có một số khu du lịch đã quy hoạch đến năm 2020. Các bản
quy hoạch của từng vùng du lịch được công bố công khai để từng người dân được biết,
từ đó họ ý thức hơn về làm du lịch, đây cũng là điều kiện thuận lợi để tiến đến xã hội
hóa du lịch. Trong những năm qua, Tỉnh đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu du
lịch. Những khu du lịch trọng điểm của Ninh Bình được ưu tiên vốn đầu tư, đang gấp
rút xây dựng và hoàn thành xong phần cơ bản về hạ tầng, bắt đầu tiến hành khai thác
như khu Tam Cốc – Bích Động, Tràng An, núi chùa Bái Đính, nước nóng Kênh Gà.
Các dự án khác như: Cơ sở hạ tầng tuyến du lịch đường thủy Bích Động- Hang Bụt,
Thạch Bích- Thung Nắng, cơ sở hạ tầng Khu du lịch các làng nghề truyền thống cũng
đang được gấp rút hoàn thiện để đưa vào khai thác.
Cơ sở hạ tầng được đầu tư cải thiện là đệm phóng cho những dự án đầu tư của
khu vực tư nhân. Những năm gần đây, các doanh nghiệp trong Tỉnh cũng như ở trong
nước đang liên tiếp đăng kí đầu tư. Hiện nay, các dự án đang được triển khai thực hiện
đầu tư theo đúng tiến độ đã phê duyệt. Nhiều hạng mục công trình của các dự án đã
đưa vào khai thác, sử dụng phục vụ khách du lịch hiệu quả.
Vũ Thị Hải Yến Kinh tế đầu tư
47A