TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG TÀI LIỆU
ATK: An toàn khu.
Bộ LĐ-TB và XH: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.
XĐGN: Xoá đói giảm nghèo.
XHH XĐGN: Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo.
CNXH: Chủ nghĩa Xã hội.
TCPCP: Tổ chức phi chính phủ.
HDI: Human Development Index -Chỉ số về phát triển con người.
PQLI: Product Quality Life Index- Chỉ số chất lượng vật chất của cuộc
sống.
ODC: Offshore Development Council- Hội đồng phát triển Hải ngoại.
0
LỜI NÓI ĐẦU
Một trong những thách thức lớn của các nước đang phát triển, nhất là Việt
Nam hiện nay là đói, nghèo, nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Dưới sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng cùng sự cố gắng nỗ lực lớn của Chính phủ, các Bộ,
ban, ngành, đoàn thể và các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương,
công cuộc xoá đói giảm nghèo trong 10 năm qua đã đạt thành tựu to lớn, giảm tỷ
lệ đói nghèo 30% (1993) xuống còn 11% (năm 2000), trung bình mỗi năm giảm
gần 300.000 hộ đói nghèo.
Một trong những bài học về thành công của xóa đói giảm nghèo là phải
thực hiện xã hội hoá. Đây là một giải pháp quan trọng hàng đầu trong các biện
pháp xoá đói giảm nghèo nhằm thu hút sự tham gia ủng hộ của mọi thành phần
trong xã hội, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho xoá đói giảm
nghèo.
Tuy nhiên, đói nghèo ở Việt Nam còn trầm trọng và vẫn là một thách thức
lớn, tỷ lệ đói nghèo theo chuẩn mực mới hiện nay là 24% - 25% (năm 2000). Vì
vậy trong 5 - 10 năm tới, đói nghèo vẫn là một vấn đề thời sự được toàn xã hội
quan tâm. Trong Báo cáo chính trị về các văn kiện Đại hội Đảng khoá IX chỉ rõ:
xoá đói, giảm nghèo trong 5 - 10 năm tới là một trong những nhiệm vụ kinh tế
chính trị quan trọng, cơ bản của Đảng và Nhà nước ta. Đảng và Nhà nước đã đề
ra mục tiêu cho xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 là giảm tỉ lệ đói
nghèo xuống còn 11% (theo chuẩn mực mới) (tức là giảm bình quân mỗi năm là
3%).
Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo những năm vừa qua cho thấy, để đạt
được mục tiêu này quả không đơn giản, nó đòi hỏi sự cố gắng quyết tâm nỗ lực
lớn của toàn xã hội. Do đó, xã hội hoá xoá đói giảm nghèo vẫn là một biện pháp
quan trọng, cần thiết hơn bao giờ hết cho xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn
tới. Vì vậy, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài: "Một số giải pháp tăng cường xã hội
hoá xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 ở Việt Nam". Hy vọng đóng
góp đôi chút lý luận cho thực tiễn.
1
Nội dung đề tài gồm:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về xã hội hoá công tác xoá đói
giảm nghèo.
Chương II: Thực trạng xã hội hoá công tác Xoá đói giảm nghèo giai đoạn
vừa qua.
Chương III: Phương hướng, giải pháp tăng cường xã hội hoá xoá đói
giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 ở Việt Nam.
Vì thời gian có hạn, kinh nghiệm còn nhiều hạn chế, cho nên đề tài không
tránh khỏi sai sót mong có sự đóng góp ý kiến của các Thầy,Cô giáo và bạn đọc.
Mọi ý kiến xin vui lòng gửi theo địa chỉ email:
[email protected].
Xin chân thành cảm ơn!
2
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÃ HỘI HOÁ CÔNG TÁC
XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
I. QUAN NIỆM ĐÓI NGHÈO
Có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo. Quan niệm chung nhất cho
rằng: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ những nhu cầu cơ
bản tối thiểu của cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, giao
tiếp xã hội... Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về mức
độ và số lượng, thay đổi theo không gian và thời gian. Người nghèo của quốc
gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi
vậy nhìn nhận và tổ chức thực hiện vấn đề xoá đói giảm nghèo một cách đầy đủ
và có căn cứ cần tham khảo khái niệm, kinh nghiệm, chỉ tiêu, chuẩn mực đánh
giá và các giải pháp thực hiện xoá đói giảm nghèo của thế giới; cũng như nắm
vững thực tế ở Việt Nam để có những khái niệm, xác định chuẩn mực, xây dựng
hệ thống giải pháp thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh ở Việt Nam trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên để phục vụ cho phần sau, ở đây chỉ khảo
sát về khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực nghèo đói của thế giới và Việt Nam.
1. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá nghèo đói của thế giới
1.1. Khái niệm đói nghèo của thế giới.
Thế giới thường dùng khái niệm nghèo khổ mà không dùng khái niệm đói
nghèo như ở Việt Nam và nhận định nghèo khổ theo 4 khía cạnh: thời gian,
không gian, giới và môi trường.
- Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ là những người có mức sống
dưới mức "chuẩn" trong một thời gian dài. Cũng có một số người người nghèo
khổ "tình thế", chẳng hạn như những người thất nghiệp, những người nghèo do
suy thoái kinh tế hoặc do thiên tai, địch hoạ, tệ nạn xã hội, rủi ro...v.v.
3
- Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn, nơi có 3/4 dân số
sinh sống. Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết là ở các nước
đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng.
- Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Nhiều hộ gia đình
nghèo nhất do phụ nữ là chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói do đàn ông làm chủ hộ
thì phụ nữ khổ hơn nam giới.
- Về môi trường: Phần lớn người thuộc diện đói nghèo đều sống ở những
vùng sinh thái khắc nghiệt mà ở đó tình trạng đói nghèo và sự xuống cấp về môi
trường đều đang ngày càng trầm trọng thêm.
Từ nhận dạng trên Liên Hiệp Quốc đưa ra hai khái niệm chính về đói
nghèo:
+ Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
những nhu cầu cơ bản tối thiểu để duy trì cuộc sống.
+ Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
đầy đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu; nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc sống
là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, giao tiếp, xã hội, vệ sinh, y tế
và giáo dục. Ngoài những đảm bảo trên, cũng có ý kiến cho rằng, nhu cầu tối
thiểu bao gồm có quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng.
Tuỳ mức độ đảm bảo nhu cầu tối thiểu mà sự nghèo khổ của dân cư được
chia thành nghèo, rất nghèo, hoặc nghèo bậc I, bậc II.
1.2. Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo của thế giới:
Chỉ tiêu đánh giá sự đói nghèo trong một quốc gia bắt đầu từ việc vạch ra
giới hạn đói nghèo.
Khi đánh giá nước giàu, nước nghèo trên thế giới, giới hạn đói nghèo được
biểu hiện bằng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GDP).
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, chỉ căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập thì chưa
đủ để đánh giá. Vì vậy, bên cạnh chỉ tiêu này, tổ chức Hội Đồng phát triển Hải
4
Ngoại (ODC) đưa ra chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLI). Căn cứ để
đánh giá chỉ số PQLI bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản:
- Tuổi thọ.
- Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh.
- Tỷ lệ xoá mù chữ.
Gần đây tổ chức UNDP đưa thêm chỉ số về phát triển con người (HDI), bao
gồm 3 chỉ tiêu:
- Tuổi thọ.
- Tình trạng biết chữ của người lớn.
- Thu nhập.
Căn cứ vào 3 chỉ tiêu này, UNDP đánh giá Việt Nam đứng thứ 121/175
nước trên thế giới (tài liệu công bố năm 1997 và lấy cơ sở số liệu năm 1995).
Như vậy, chỉ tiêu đánh giá nước giàu, nước nghèo của các quốc gia vẫn căn
cứ vào chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu người là chính. Khi kết hợp với
các chỉ số PQLI hay HDI chỉ bổ sung cho việc nhìn nhận các nước giàu, nghèo
chính xác hơn khách quan hơn.
- Về hộ nghèo: Giới hạn đói nghèo biểu hiện dưới dạng chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân tính theo
đầu người nằm dưới giới hạn nghèo được coi là hộ nghèo. Quy mô nghèo của từng vùng, của một quốc gia được
xác định bằng tỷ lệ số hộ nghèo đói trên tổng số hộ dân cư thuộc vùng hoặc quốc gia đó.
Quy mô nghèo Số hộ nghèo đói của vùng hoặc quốc gia
của vùng hoặc Số hộ dân cư của vùng hoặc quốc gia
quốc gia
Công thức tính quy mô nghèo của vùng hoặc quốc gia.
1.3. Chuẩn mực đói nghèo của thế giới:
Nói chung quan niệm của nhiều nước cho rằng hộ nghèo có mức thu nhập
dưới 1/3 mức thu nhập trung bình của toàn xã hội. Với quan niệm này, hiện trên
5
thế giới có 1,12 tỷ người (20%) đang sống trong tình trạng nghèo khổ, tức là
sống dưới 420 USD/người/năm hoặc 35 USD/người/tháng mà Ngân hàng thế
giới đã ấn định.
- Các nước phát triển: Lấy nước Mỹ làm đại diện cho các nước phát triển.
Năm 1992, Mỹ lấy chuẩn mực một người trong hộ có thu nhập bình quân tháng
dưới 71 USD là người nghèo khổ (852 USD/năm).
- Các nước đang phát triển: Mỗi nước có một chuẩn mực khác nhau:
Pakitstan lấy 6 USD/người/tháng; Indonesia 6 USD/người/tháng; Philippin 7
USD/người/tháng. Cũng có nước dùng chỉ tiêu Kalory/người/ngày như
Bănglađét dưới 1650 Kalory/người/ngày.
2. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá hộ đói nghèo của Việt
Nam
Ở Việt Nam đã có nhiều quan điểm đưa ra xung quanh vấn đề khái niệm,
chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá đói nghèo. Song các ý kiến sau đây là tập trung
nhất.
2.1. Khái niệm:
Tách riêng đói và nghèo không khái niệm chung như thế giới.
- Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một
phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức
sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
+ Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng
thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là
những đảm bảo ở mức tối thiểu những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở và sinh
hoạt hàng ngày gồm văn hoá, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp.
+ Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức sống trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét.
- Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.
6
Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1 đến 2 tháng, thường vay
nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả.
2.2. Chỉ tiêu đánh giá hộ nghèo của Việt Nam:
- Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng (hoặc 1 năm) được
đo bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường lấy lương thực (gạo) tương
ứng một giá trị nhất định để đánh giá.
Khái niệm thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý (bằng tổng thu
trừ đi tổng chi phí sản xuất). Song cần nhấn mạnh chỉ tiêu thu nhập bình quân
nhân khẩu tháng là chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói nghèo.
- Chỉ tiêu phụ: là dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện học tập,
chữa bệnh, đi lại...v.v.
Lấy chỉ tiêu thu nhập là cơ bản để phản ánh mức sống, biểu hiện bằng giá
trị. Tuy nhiên, trong điều kiện giá cả không ổn định như nước ta thì cần thiết sử
dụng hình thức hiện vật, phổ biến là quy ra gạo tiêu chuẩn (gạo thường), tương
ứng với một giá trị nhất định. Việc sử dụng hiện vật quy đổi tương ứng với một
giá trị so sánh mức thu nhập của người dân theo thời gian và không gian được
dễ dàng. Đặc biệt đối với người nghèo nói chung và người nghèo đói ở nông
thôn nói riêng, chỉ tiêu lượng kilôgam gạo bình quân 1 người trong 1 tháng
tương ứng 1 lượng giá trị nhất định là rất có ý nghĩa thực tế.
2.3. Chuẩn mực xác định nghèo của Việt Nam hiện nay.
Ở Việt Nam để đo tình trạng nghèo đói nhiều địa phương cơ bản lấy tiêu
chuẩn thu nhập bình quân 1 khẩu trong 1 năm. Chẳng hạn thành phố Hồ Chí
Minh lấy mức thu nhập bình quân dưới 3 triệu ở thành thị và dưới 2,5 triệu ở
nông thôn /1 khẩu/1 năm. Một số nhà kinh tế lấy tiêu thức lương thực bình quân
nhân khẩu, gia đình nào có thu nhập bình quân dưới 30 kg gạo/khẩu/tháng được
coi là nghèo. Theo Tổng cục Thống kê, để xác định hộ nông dân nghèo được
căn cứ vào thu nhập tính bình quân đầu người, nếu đạt dưới 2100
Kalory/ngày/người sẽ là hộ nghèo. Một khuynh hướng khác lại lấy mức lương
7
tối thiểu do Nhà nước quy định làm chuẩn. Người có mức sống dưới mức nghèo
khổ là người có thu nhập bình quân một tháng thấp hơn mức lương tối thiểu
( Mức lương tối thiểu hiện nay là 210.000 đồng/tháng). Các chuẩn mực trên có
thể đúng với từng địa bàn cụ thể song không thể áp dụng cho mọi đối tượng,
mọi vùng trên phạm vi cả nước.
Còn theo quy định tại thông báo 1751/LĐTBXH ngày 20/5/97 của Bộ Lao
động - Thương binh và xã hội thì:
Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân quy ra gạo:
- Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương đương
55 ngàn đồng).
- Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng (tương
đương 70 ngàn đồng).
- Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90 ngàn đồng).
Đây là chuẩn mực tối thiểu chung cho cả nước, khi áp dụng vào từng địa
phương cần có điều chỉnh thích hợp tuỳ theo điều kiện cụ thể của địa phương
đó.
Ngoài ra, cũng cần phải xem xét các đặc trưng cơ bản như: Thiếu ăn từ 3
tháng trở lên trong năm, nợ sản lượng khoán triền miên, vay nặng lãi, con em
không có điều kiện đến trường (mù chữ hoặc bỏ học), thậm chí phải cho con
hoặc tự bản thân đi làm thuê cuốc mướn để kiếm sống qua ngày hoặc đi ăn xin...
Nếu đưa chuẩn mực này ra để xác định thì rất dễ phân biệt hộ đói nghèo ở nông
thôn.
Về hộ đói: Theo Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, trong giai đoạn
hiện nay nếu thu nhập bình quân trong hộ đạt dưới 13 kg gạo/người/tháng
(tương đương 45.000 đ/người/tháng) là hộ đói. Song thực tế những hộ nào thiếu
lương thực trong gia đình phải đứt bữa hoặc ăn bữa cơm bữa cháo, ăn độn khoai
sắn... là biểu hiện của hộ đói.
8
Theo chuẩn mực trên, đến hết năm 1999, cả nước còn khoảng 2 triệu hộ
(khoảng 11 triệu người) nghèo đói chiếm tỷ lệ 13%; năm 2000 ước tính 1,7 triệu
hộ (8,4 triệu người nghèo đói) chiếm tỷ lệ 11%.
Theo Bộ LĐ-TB và XH công bố mới đây( cuối năm 2000) về chuẩn mực
mới áp dụng cho 5 năm tới thì:
Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người một tháng tính theo
giá hiện hành (cao gấp 1,5 lần chuẩn cũ), cụ thể như sau:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 80.000 đồng.
- Vùng nông thôn đồng bằng,trung du: dưới 100.000 đồng.
- Vùng thành thị: dưới 150.000 đồng. Hộ đói là hộ có mức thu nhập
bình quân đầu người một tháng
dưới 60.000 đồng.
Theo chuẩn này, đến hết năm 2000, cả nước có khoảng 4 triệu hộ
nghèo, chiếm tỷ lệ 24-25% tổng số hộ trong cả nước. Trong đó 4 vùng có tỷ lệ
nghèo đói trên 30%.
Kể từ khi phát động phong trào XĐGN ở Thành phố Hồ Chí Minh năm
1992 đến nay, Bộ LĐ -TB và XH đã ban hành các chuẩn mực về đói nghèo
khác nhau cho phù hợp với một thực tiễn là kinh tế ngày càng phát triển, đời
sống ngày càng nâng cao, thu nhập bình quân trên đầu người từ 257 USD/năm
(năm 1992) lên tới 370 USD (năm 2000). Các chuẩn mực mới đưa ra ngày càng
cao không những chỉ là dấu hiệu về sự tiến bộ của kinh tế đất nước mà còn là
dấu hiệu về sự thành công trong công tác XĐGN.
Chuẩn mực mới đưa ra( cuối năm 2000) là hợp lý vì:
- Phản ánh đúng thực trạng đói nghèo ở nước ta. Tuy XĐGN trong những
năm qua gặt hái thành quả đáng kể, đời sống nhân dân được nâng lên, song thực
trạng đói nghèo vẫn trầm trọng, chênh lệch giữa các vùng ngày càng tăng.
- Phù hợp quá trình hội nhập quốc tế. Vấn đề đói nghèo là vấn đề mang tính
toàn cầu, nhất là đối với Việt Nam. Vì vậy, học hỏi kinh nghiệm và trợ giúp lẫn
nhau là vấn đề cốt yếu trong hội nhập. Mỗi nước phải đưa ra được chuẩn mực
phù hợp với nước mình và phù hợp với quốc tế.
9
- Khả năng huy động nguồn lực cho XĐGN được bảo đảm.
- Phù hợp khoa học và thực tiễn.
3. Khái niệm liên quan khác nhau
3.1. Khái niệm về vùng nghèo:
- Là một vùng liên tục gồm nhiều làng, xã, huyện hoặc chỉ một làng, một
xã, một huyện mà tại đó chứa đựng nhiều yếu tố khó khăn, bất lợi cho sự phát
triển của cộng đồng như : Đất đai khô cằn, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, địa
hình phức tạp, giao thông khó khăn, trình độ dân trí thấp, sản xuất tự cung tự
cấp. Và có mức sống dân cư trong vùng thấp hơn so với mức sống chung của cả
nước xét trong cùng một thời điểm (trích Giáo trình kinh tế lao động - Nxb Giáo
Dục, Hà Nội-1998, tr.244).
Từ khái niệm này có thể suy ra các khái niệm tương đương như: thôn
nghèo, làng nghèo, xã nghèo, cụm xã nghèo, huyện nghèo, tỉnh nghèo...
3.2. Khái niệm về giải pháp xoá đói giảm nghèo:
- Giải pháp theo từ điển bách khoa: là phương pháp giải quyết một vấn đề
cụ thể nào đó.
- Giải pháp xoá đói giảm nghèo là phương pháp giải quyết tình trạng đói
nghèo của dân cư nhằm nâng cao mức sống, phát triển kinh tế - xã hội của cộng
đồng.
II. QUAN ĐIỂM VỀ CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở NƯỚC TA
1. Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị - xã hội trọng tâm của toàn
Đảng, toàn dân:
Xoá đói giảm nghèo là một sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa cao quý,
là một chính sách xã hội cơ bản của quốc gia, có ý nghĩa to lớn về cả kinh tế -
chính trị - xã hội và an ninh quốc phòng, mang tính nhân văn sâu sắc và phát
huy bản chất tốt đẹp của dân tộc.
10
Bài phát biểu của Đ/c Mai Chí Thọ, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, tại hội
nghị sơ kết chương trình xoá đói giảm nghèo của thành phố Hồ Chí Minh
(3/10/92) viết: "Xoá đói giảm nghèo là đạo lý dân tộc, là lý tưởng đạo đức cộng
sản".
"Với chủ trương xoá đói giảm nghèo, phát triển công tác xã hội và từ thiện
chúng ta đáp ứng đúng nhu cầu bức thiết của nhân dân ta, đất nước ta một cách
toàn diện về cả chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng".
Bài phát biểu của Đồng chí Nguyễn Văn Linh, cố vấn Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, trong Hội nghị sơ kết chương trình xoá đói giảm nghèo của
thành phố Hồ Chí Minh (ngày 3/10/92) viết:
"Chương trình xoá đói giảm nghèo có một ý nghĩa xã hội rất rộng lớn là
một đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng CNXH. Các Đồng chí gọi
đây là một cuộc cách mạng là rất đúng. Cuộc cách mạng này đòi hỏi phải làm
lâu dài và rất kiên trì. Thực hiện thành công chương trình này chúng ta sẽ dần
dần xoá bỏ cuộc sống quá chênh lệch giữa đồng bào, những sự bất bình đẳng,
những bất công trong xã hội, tạo nên sự đoàn kết, tương trợ tương thân, tương ái
với tinh thần tình làng nghĩa xóm "lá lành đùm lá rách", một truyền thống rất tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam chúng ta. Đây là một mặt của nền văn hoá dân tộc mà
chúng ta không được xao lãng".
- Trích "xoá đói giảm nghèo vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh" - Thành
phố Hồ Chí Minh 1992, trang 46.
Tại Hội nghị triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo
và chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và
vùng sâu, vùng xa ngày 6-7/1/1999. Thủ tướng Phan Văn Khải phát biểu :
"... Điều thường xuyên trăn trở của Đảng và Nhà nước ta hơn 10 năm đổi
mới là làm sao người nghèo có cơ hội để thoát nghèo khổ, làm sao để người dân
hiện nay còn nghèo đói có được điều kiện thuận lợi, tự vươn lên tổ chức được
sản xuất và cải thiện từng bước đời sống để cùng đồng bào cả nước bước vào thế
kỷ XXI không còn đói, mọi người đều có cơ hội tham gia xây dựng một xã hội
11
công bằng, văn minh. Những thành tựu của công cuộc đổi mới mà nhân dân ta
đạt được là rất quan trọng, nhưng những vấn đề tồn tại, đặc biệt là vấn đề chênh
lệch giàu nghèo cũng diễn ra gay gắt hơn, đòi hỏi phải có chính sách và cách
làm phù hợp để giải quyết vấn đề này một cách cơ bản. Đường lối đổi mới của
Đảng và nhà nước ra nhằm khuyến khích mọi người đem tài năng sức lực làm
giàu hợp pháp và góp phần xây dựng đất nước. Mặt khác, Đảng và nhà nước ta
luôn chú trọng bảo đảm cho mọi người dân đều được hưởng những thành tựu
của công cuộc đổi mới, đây là bản chất ưu việt của chế độ ta, đặc biệt là phải
quan tâm đến một bộ phận dân cư ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn đang bị đói
nghèo, đang sống trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt...".
- Trích Kỷ yếu Hội nghị triển khai công trình mục tiêu quốc gia xoá đói
giảm nghèo và chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn
miền núi và vùng sâu, vùng xa, trang 29.
Cũng tại hội nghị này Đồng chí tổng bí thư Lê Khả Phiêu phát biểu:
"... Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo tức là chúng ta thực hiện
lời dạy của Hồ Chủ tịch, thực hiện Nghị quyết của Trung ương VI (lần 1), Nghị
quyết của Bộ chính trị về nông nghiệp nông thôn, đó vừa là trách nhiệm vừa là
tình cảm chân thành của chúng ta đối với bộ phận dân nghèo...".
- Trích kỷ yếu (như trên) trang 27.
Từ Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khoá VII) Đảng ta đã đề ra chủ trương
xoá đói, giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông
dân cũng như trong chiến lược phát triển chung của xã hội.
Văn kiện Đại hội đại biểu khoá VIII của Đảng một lần nữa đã nhấn mạnh
tầm quan trọng đặc biệt của xoá đói, giảm nghèo, đã xác định phải nhanh chóng
đưa các hộ đói nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh túng thiếu hiện nay và sớm hoà
nhập với sự phát triển chung của đất nước.
12
2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước hết là công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xoá đói
giảm nghèo và tạo tiền đề để xoá đói giảm nghèo bền vững.
Đây là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta, hợp với quy luật
khách quan của phát triển kinh tế - xã hội trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Muốn thực hiện tốt chủ trương
này cần phải kết hợp chương trình xoá đói giảm nghèo với các chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với
đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, giảm dần khoảng cách về mức sống giữa các
vùng, các tầng lớp dân cư, nâng cao chất lượng cuộc sống.
3. Quan điểm xoá đói giảm nghèo trên cơ sở phát huy nội lực của người
nghèo, xã nghèo tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói, kết hợp với sự hỗ trợ của nhà
nước và cộng đồng, đồng thời tranh thủ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
hợp tác quốc tế để đẩy nhanh xoá đói giảm nghèo vững chắc.
4. Quan điểm xoá đói giảm nghèo tập trung vào địa bàn nông thôn nơi
chiếm 90% số hộ nghèo đói, xã đặc biệt khó khăn, vùng ATK, khu căn cứ cách
mạng, biên giới, hải đảo, đồng bào dân tộc, phụ nữ nghèo.
III. Nhân tố ảnh hưởng đến công tác xoá đói giảm nghèo
Có nhiều nhân tố tác động trực tiếp và gián tiếp đến kết quả công tác xoá
đói giảm nghèo. Song có thể kể ra những nhân tố chính sau: chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, những chính sách và phương thức tác động thích hợp của
nhà nước, sự thay đổi cung cách làm ăn của các hộ nghèo để phát huy nội lực và
sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế để thu hút ngoại lực là những nhân tố ảnh
hưởng đến xoá đói giảm nghèo.
1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước và địa phương là một
nhân tố cơ bản xuyên suốt trong phát triển kinh tế - xã hội mà bất cứ giai cấp
nào nắm quyền hành nhà nước đều phải đưa ra được cương lĩnh chiến lược trong
phát triển kinh tế - xã hội. Đó là kim chỉ nam định hướng cho phát triển kinh tế -
13
xã hội: Đi theo hướng nào? Để phục vụ cho ai? Ai thực hiện nó? Trong bao
lâu?...v.v.
Ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam là nhà nước
của dân, do dân và vì dân, do đó vấn đề xoá đói giảm nghèo bảo đảm công bằng
xã hội là một trong những mục tiêu chính trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của Đảng, nhà nước. Xoá đói giảm nghèo là điểm nổi bật thể hiện chính sách
kinh tế gắn với cuộc sống xã hội. Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị - xã
hội trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân (như đã phân tích ở phần trên).
Một chiến lược tốt không chỉ thu hút sự quan tâm của cả dân tộc, thu hút
được cộng đồng quốc tế một cách thường xuyên mà còn phải được thể chế thành
những chương trình phù hợp thiết thực có căn cứ. Điều quan trọng nhất là: thận
trọng trong việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô nhằm xử lý đồng thời hai
vấn đề kinh tế trì trệ và nghèo đói, phải giải quyết từng bước vững chắc đồng
thời hai mục tiêu, tăng trưởng kinh tế và chống nghèo đói bằng các chương trình
đồng bộ và thiết thực.
2. Những chính sách và phương thức tác động
Những chính sách và phương thức tác động thích hợp của nhà nước để xoá
đói giảm nghèo có ý nghĩa thiết thực: Người nghèo giảm bớt được đói nghèo, xã
hội giảm bớt được sự chênh lệch giàu nghèo quá thái, vì thế: tài chính tiền tệ,
đầu tư, tự do hoá thương mại với tỷ giá cạnh tranh, hạn chế và đi tới không phân
biệt đối xử với người lao động, đối với các hình thức sản xuất kinh doanh, ưu
tiên đầu tư hỗ trợ tài chính, cũng như đảm bảo chi tiêu xã hội cho vùng nghèo,
khó khăn. Nhờ đó mà các đối tượng nghèo đói có các cơ hội về thu nhập, giảm
bớt nghèo đói cho chính mình và cho xã hội.
Cùng với sự tác động về chính sách vĩ mô ,vấn đề phương thức tác động
thông qua các công cụ như: Thuế, giá cả, cải thiện cơ sở hạ tầng, chuyển giao
công nghệ, ...v.v... còn giúp người nghèo có cơ hội tiếp cận các nguồn lực. Vì
thực tế hộ đói nghèo thường khó tiếp cận các nguồn lực, dẫu rằng có nhiều
nguồn lực tuy sẵn có, mà tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực là yếu tố then chốt
14
của xoá đói giảm nghèo. Do đó, phương thức tác động của nhà nước là cầu nối
giữa các nguồn lực với những người nghèo trong xã hội. Đây là những nhân tố
ảnh hưởng thể hiện rõ vai trò chính sách và phương thức tác động thích hợp của
nhà nước trong điều hành kinh tế vĩ mô để phát huy nội lực.
3. Vai trò của các tổ chức quốc tế
Tác động hiệu quả đến xoá đói giảm nghèo, cần phải nhận thức đầy đủ vai
trò của các tổ chức quốc tế.
Nhất là đối với các nước kém phát triển. Đối với nước ta điều đó càng có ý
nghĩa. Đành rằng sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế không thể thay thế được nội
lực bên trong của đất nước, nhưng rõ ràng và thực tế trong những năm đổi mới ở
nước ta đã khẳng định: sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế theo các chương trình
dự án: Chuyển giao công nghệ - môi trường sinh thái - chuyển sang dinh dưỡng
trẻ em Việt Nam đã có tác động tích cực. Vì thế vấn đề hoàn thiện các thể chế
pháp lý, thể chế hành chính, tạo môi trường thuận lợi để thu hút các tổ chức
quốc tế tham gia vào chương trình xoá đói giảm nghèo là giải pháp thực tế góp
phần xoá đói giảm nghèo.
4. Sự tiếp cận của chính bản thân "họ" những người đói nghèo
Sự tiếp cận đó chính là sự thay đổi về chất, về cung cách làm ăn của người
nghèo và có ý thức tự giác của họ trong công việc, cởi trói tâm lý mặc cảm, tâm
lý an phận vươn lên làm giàu. Từng hộ nghèo, xã nghèo cũng phải chịu khó học
hỏi, siêng năng làm việc tạo cho mình một cuộc sống ngày càng cải thiện, bằng
chính sức lao động của mình. Thêm một hộ, một xã thoát nghèo là sẽ có thêm sự
ổn định vững vàng để đất nước đi vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Vì thế, vấn đề nâng cao dân trí thông qua các phương pháp tuyên truyền
giáo dục, khuyến nông, lâm, ngư; truyền thông dân số, sức khoẻ và môi trường,
là việc làm cần ưu tiên. Suy đến cùng chính người đói nghèo "họ" vừa là "đối
tượng" của chính sách tác động của nhà nước, vừa là người tổ chức thực hiện
cho chính mình. Không ai hiểu mình bằng chính mình, chỉ khi bản thân họ "tự
cải tạo" được thì mọi chương trình quốc gia mới thực sự có hiệu quả.
15
IV. Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo
Xã hội hoá là một vấn đề mới mẻ đối với nước ta, mặc dù thuật ngữ này đã
xuất hiện rất lâu trong lịch sử. Vì vậy, hiện nay chưa có chính thức tổng kết nào
một cách toàn diện về xã hội hoá cho mọi lĩnh vực của xã hội, tất nhiên loại trừ
lĩnh vực không thể xã hội hoá. Mà thực tế qua khảo sát của người nghiên cứu
thấy rằng: Xã hội hoá mới được tổng kết nghiên cứu trên một số lĩnh vực riêng
lẻ như: văn hoá, y tế, giáo dục... Do đó, quả là khó khăn khi đưa ra được khái
niệm chính xác về xã hội hoá nói chung và xã hội hoá xoá đói giảm nghèo nói
riêng. Sau đây là một số khái niệm và khía cạnh mà hợp lý với nội dung đề tài:
1. Khái niệm xã hội hoá; xã hội hoá xoá đói giảm nghèo
Theo từ điển bách khoa, từ điển tiếng Việt (1998 - Nxb: Đà Nẵng) thì:
"Xã hội hoá là làm cho trở thành của chung của xã hội".
Nếu theo định nghĩa này thì xã hội hoá một lĩnh vực xã hội nào đó nghĩa là
làm hay biến lĩnh vực đó trở thành của chung của xã hội. Chẳng hạn xã hội hoá
xoá đói giảm nghèo nghĩa là biến lĩnh vực xoá đói giảm nghèo trở thành lĩnh
vực chung của xã hội.
Trong quyển "Kinh tế chính trị học" tập II, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội
1996 của Bộ môn kinh tế chính trị học, trang 95 tổng kết:
- Xã hội hoá sản xuất là quá trình kinh tế khách quan phản ánh xu thế phát
triển tất yếu của xã hội. Quá trình này được quy định bởi sự phát triển biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Xã hội hoá sản xuất tăng thêm tính chất xã hội của hình thức sản xuất dựa
trên cơ sở phân công và hiệp tác lao động.
- Xã hội hoá sản xuất là phạm trù kinh tế phức tạp phản ánh các mối liên hệ
kinh tế: kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - tổ chức và kinh tế - xã hội, tất cả những mối
liên hệ kinh tế tác động qua lại lẫn nhau trong sự phù hợp giữa lao động sản xuất
và quan hệ sản xuất.
16
Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 của Chính phủ nêu rõ: "Xã hội hoá
các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá là vận động và tổ chức sự tham gia rộng
rãi của nhân dân của toàn xã hội vào sự phát triển các sự nghiệp đó nhằm từng
bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá và sự phát triển về thể
chất và tinh thần của nhân dân".
Trong bài "xã hội hoá hoạt động văn hoá thông tin ở cơ sở" T.S. Đỗ Kim
Thịnh viết:
"Khái niệm xã hội hoá hoạt động văn hoá nói chung và trong đó có xã hội
hoá hoạt động văn hoá ở cơ sở được xem là hướng vào thu hút toàn xã hội, cung
cấp và phổ biến văn hoá, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hoá phát triển
mạnh mẽ, rộng khắp và nâng cao dần mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân trên
cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước trong
lĩnh vực văn hoá"* . Trong bài "Một số nhận thức cơ bản về xã hội hoá các hoạt
động văn hoá" Th.S. Phạm Vũ Dũng viết: "Xã hội hoá hoạt động văn hoá là biến
các hoạt động văn hoá trở thành của toàn xã hội, được xã hội quan tâm nuôi
dưỡng, được sự tham gia của nhiều ngành và mọi tầng lớp nhân dân"** .
Từ các khái niệm trên có thể rút ra khái niệm xã hội hoá công tác xoá đói
giảm nghèo như sau:
"Xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo là biến công tác xoá đói giảm
nghèo trở thành nhiệm vụ của toàn xã hội, được xã hội đặc biệt quan tâm, tập
trung mọi nguồn lực nhằm xoá được đói, giảm được nghèo, nâng cao chất lượng
cuộc sống cho nhân dân trên cơ sở tăng cường quản lý nhà nước lĩnh vực xoá
đói giảm nghèo và khuyến khích sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân và các
tổ chức quốc tế".
Như vậy, Xã hội hoá là một trong những biện pháp quan trọng trong
chương trình XĐGN. Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến XĐGN phần
trên cho thấy tăng cường quản lý, khuyến khích và huy động mọi nguồn lực
*
* Trích "Xã hội hoá vấn đề văn hoá - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của
Ban tư tưởng - văn hoá Trung ương, Hà Nội 2000, tr.51.
**
** Như trên, tr.39.
17
trong và ngoài nước trên cơ sở của sự ý thức chung của toàn xã hội chính là
những nhân tố tích cực, cơ bản ảnh hưởng đến kết quả XĐGN.
2. Đặc trưng của xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo
Qua định nghĩa (phần trên) về xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo ta
thấy xã hội hoá xoá đói giảm nghèo gồm các đặc trưng sau:
- Tính phức tạp: Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo là một công việc hết sức
phức tạp bởi vì bản thân công tác xoá đói giảm nghèo đã đa dạng và phức tạp.
Cùng với xu thế tăng trưởng kinh tế trên thế giới thì khoảng cách giàu nghèo
ngày càng gia tăng dân số nghèo vẫn chiếm 1/4 dân số thế giới (tức 25%), ở Việt
Nam hiện nay vào khoảng 11% (năm 2000), 24-25% (Năm 2000-Theo chuẩn
mực mới).
Hơn nữa đây là một công việc mới mẻ, không chỉ đối với nước ta, mới đưa
vào thử nghiệm ở một số lĩnh vực: y tế, văn hoá, giáo dục, thể dục thể thao. Cho
nên chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa có tổng kết lý luận và thực tiễn
cho công tác này.
- Tính lâu dài: Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo là cả một quá trình lâu dài
không thể ngay một lúc có thể thực hiện được. Đòi hỏi phải có kế hoạch, có
bước đi cụ thể mới thành công.
- Tính truyền thống: Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo thực chất là phát huy
truyền thống "nhà nước và nhân dân cùng làm" có từ rất lâu trong lịch sử nước
ta.
- Tính tất yếu khách quan: Xu thế tăng trưởng kinh tế gắn liền với xu thế
phân hoá giàu nghèo là một quy luật khách quan của cơ chế kinh tế thị trường.
Nó đòi hỏi tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với bảo đảm công bằng xã hội, xoá
đói giảm nghèo thì tăng trưởng mới bền vững.
Hơn nữa, Xu thế dân chủ cũng là một quy luật khách quan trong thời đại
hiện nay, nhân dân ngày càng được tự do quyết định những lợi ích của họ, nhà
nước quản lý chủ yếu bằng định hướng. Tuy nhiên, vai trò quản lý nhà nước vẫn
18
luôn là chủ đạo. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân do đó thực
hiện công tác này là hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng, nhà nước.
Như vậy xã hội hoá xoá đói giảm nghèo là một quá trình lâu dài phức tạp
phù hợp với hoàn cảnh nước ta, với xu thế phát triển của thế giới.
3. Điều kiện để xã hội hoá xoá đói giảm nghèo thành công
Qua tìm hiểu công tác xã hội hoá các hoạt động: Y tế, văn hoá, giáo dục, thể
thao trong những năm qua, tìm hiểu công tác xoá đói giảm nghèo thì điều kiện
để xã hội hoá xoá đói giảm nghèo thành công là: Nhận thức, phân công trách
nhiệm & phối kết hợp, nguồn lực.
19