Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168
Về chủ quyền lịch sử, pháp lý của Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Nguyễn Bá Diến*
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
144 Xuân Thuỷ, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 05 tháng 9 năm 2012
Tóm tắt. Bài viết đưa ra những minh chứng pháp lý khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bài viết đã phân tích một số nội dung mới
được trích dẫn trong các sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam để chứng minh chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo này. Một trong những nội dung đáng chú ý là ít nhất từ thế kỷ XVI, Nhà
nước Việt Nam đã thực hiện một cách hòa bình, thực sự, công khai và liên tục các hoạt động trên
biển nhằm củng cố chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo. Bài viết cũng đưa ra thực trạng
bảo vệ và thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo từ chiến tranh thế giới thứ 2 tới
nay và khẳng định Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự và công khai quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa, khi mà các quần đảo đó chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào.
*
Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo ở Hầu như tất cả các bản đồ của các nhà hàng hải
ngoài khơi Việt Nam trong Biển Đông(1): Quần phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII
đảo Hoàng Sa chỗ gần nhất cách đảo Ré một đều vẽ chung quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
đảo ven bờ của Việt Nam khoảng 120 hải lý, Trường Sa làm một dưới cái tên Pracel, Parcel
cách Đà Nẵng khoảng 170 hải lý về phía Đông, hay Paracels(2). Các bản đồ trên nói chung đều
và, quần đảo Trường Sa chỗ gần nhất cách Vịnh xác định vị trí khu vực Pracel (tức là cả Hoàng
Cam Ranh khoảng 250 hải lý về phía Đông. Sa và Trường Sa) là giữa Biển Đông, phía đông
Nhận thức của các nhà hàng hải thời xưa về Việt Nam, bên ngoài những đảo ven bờ của
Hoàng Sa và Trường Sa lúc đầu còn mơ hồ. Họ Việt Nam. Về sau, với tiến độ của khoa học và
chỉ biết có một khu vực rộng lớn rất nguy hiểm hàng hải, người ta đã phân biệt có hai quần đảo:
cho tàu thuyền vì ở đó có những bãi đá ngầm. quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Ngày xưa, người Việt Nam gọi đó là Bãi Cát Hai quần đảo mà các bản đồ hàng hải quốc
Vàng, Hoàng Sa, Vạn Lý Hoàng Sa, và quần tế ngày nay ghi là Paracels và Spatley hoặc
đảo Trường Sa hoặc Vạn Lý Trường Sa như các Spratly chính là quần đảo Hoàng Sa và Trường
sách và bản đồ cổ của Việt Nam đã chứng tỏ. Sa của Việt Nam. Những tên “Tây Sa” và “Nam
______ ______
* (2)
ĐT: 84-4-35650769. Bản đồ của các nhà hàng hải Bồ Đào Nha, Hà Lan,
E-mail:
[email protected] Pháp như Lazaro Luis, Ferdanão Vaz Dourdo, Joãn
(1)
Nhân dân Việt Nam từ lâu dùng từ Biển Đông để chỉ cái Teixeira, Janssonius, Willem Jansz Blaeu, Jacob Aertsz
mà các bản đồ phương Tây gọi là Biển Trung hoặc biển Colom, Theunis Jacobsz, Hendrick Doneker, Frederich De
Nam Trung Hoa. Wit, Pletre du Val, Henricus E. Van Langren, v.v…
151
152 N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168
Sa” là tên phía Trung Quốc mới đưa ra mấy thập có núi(7) gọi là Cù Lao Ré, rộng hơn 30 dặm(8),
kỷ gần đây để phục vụ mưu đồ giành giật biển có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển
đảo của họ. Từ lâu, nhân dân Việt Nam đã phát bốn canh thì đến, phía ngoài nữa lại có đảo Đại
hiện quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, Trường Sa. Trước kia có nhiều hải vật và hoá
Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu và thực hiện vật của tầu, lập đôi Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày
chủ quyền của mình đối với hai quần đảo đó một đêm mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải”.
cách thật sự, liên tục và hoà bình. Đại Nam nhất thống toàn đồ, bản đồ nước
Việt Nam vẽ vào khoảng năm 1838, ghi
“Hoàng Sa” - “Vạn Lý Trường Sa” thuộc lãnh
1. Chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với thổ Việt Nam.
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa(3)
Đại Nam nhất thống chí, bộ sách địa lý Việt
Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam do Quốc sử quán nhà Nguyễn (1802 -
Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, 1845) soạn xong năm 1882(9) ghi Hoàng Sa là
Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý bộ phận lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Quảng
Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam. Nghĩa. Đoạn nói về hình thể tỉnh Quảng Nghĩa,
cuốn sách viết: “Phía Đông có đảo cát - đảo
Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, tập
Hoàng Sa - liền với biển làm hào; phía Tây là
bản đồ Việt Nam do Đỗ Bá, tên chữ là Công
đạo, soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời miền sơn man, có lũy dài vững vàng; phía Nam
chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Nghĩa, xứ liền với tỉnh Bình Định, có đèo Bến Đá chặn
Quảng Nam: “giữa biển có một bãi cát dài, gọi ngang, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, có
là Bãi Cát Vàng”, “Họ Nguyễn (4) mỗi năm vào ghềnh Sa Thổ làm giới hạn”.
tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc Nhiều nhà hàng hải, giáo sĩ phương Tây
thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là trong những thế kỷ trước đều xác nhận
vàng bạc, tiền tệ, súng đạn”. Hoàng Sa (Pracel hay Paracel) thuộc lãnh thổ
Trong Giáp Ngọ bình nam đồ, bản đồ xứ Việt Nam.
Đàng Trong do Đoán quận công Bùi Thế Đạt vẽ Một giáo sĩ phương Tây đi trên tàu
năm 1774, Bãi Cát Vàng cũng được vẽ là một Amphitrile từ Pháp sang Trung Quốc năm 1701
bộ phận của lãnh thổ Việt Nam (5). viết trong một lá thư rằng: “Paracel là một quần
Phủ biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học đảo thuộc vương quốc An Nam” (10).
Lê Quý Đôn (1726 - 1784) viết về lịch sử, địa
lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa
Nguyễn (1558 - 1775) khi ông được triều đình ______
(7)
bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đối với người Việt Nam cũng như người Trung Quốc,
Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) chữ Hán “Sơn” có nghĩa là núi, nhưng cũng được dùng để
chỉ các hải đảo. Thí dụ: Phần lớn các đảo ở ngoài cửa vịnh
thuộc phủ Quảng Ngãi. “Xã An Vĩnh”(6), huyện Hàng Châu (Nam Thượng Hải) đều được người Trung
Bình Sơn, Phủ Quảng Nghĩa, ở ngoài cửa biển Quốc gọi là sơn: Bạch Sơn, Đại Ngư Sơn, Đại Dương Sơn,
Tiểu Dương Sơn, Trúc Sơn, Tù Sơn, v.v… Người Trung
______ Quốc cũng dùng sơn để chỉ một số đảo của Việt Nam như
(3)
Xem thêm: Bộ Ngoại giao Việt Nam, Sách trắng, Quần Cửu Đầu Sơn (đảo Cô Tô), Bất Lao Sơn (cù Lao Chàm),
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa Bộ phận lãnh thổ Ngoại La Sơn (Cù Lao Ré)…
(8)
của Việt Nam các năm 1979, 1981. Dặm: Đơn vị đo lường thời xưa của Việt Nam, tương
(4)
Tức chúa Nguyễn, cát cứ xứ Đàng trong từ năm 1558 đương 1/2km.
(9)
đến năm 1775. Phần viết về các tỉnh Trung Bộ được soạn lại và khắc in
(5)
Trong tập Hồng Đức bản đồ. Xem thêm: Nhiều tác giả năm 1909.
(10)
(2011), Bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý Hoàng Sa, Trường J.Y.C. Trích dẫn trong bài “Bí mật các đảo San hô -
Sa là của Việt Nam, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2011. Nhật ký về cuộc hành trình đến Hoàng Sa”. (Mystere des
(6)
Ở phía Nam biển Sa Kỳ, phường An Vĩnh ở Cù Lao Ré atolls - Journal de voyage aux Paracels) đăng trong tuần
cũng thuộc xã này. báo “Đông Dương” (Indochine) trong các số ngày 3, 10,
N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168 153
J.B. Chaigneau, cố vấn của vua Gia Long, Với tư cách là người làm chủ, trong nhiều
năm 1820 đã viết trong phần chú thích bổ sung thập kỷ nhà nước phong kiến Việt Nam đã
vào cuốn Hồi Ký về nước Cochinchine(11): nhiều lần tiến hành điều tra khảo sát địa hình
“Nước Cochinchine mà nhà vua bấy giờ đã lên và tài nguyên hai quần đảo Hoàng Sa và
ngôi Hoàng đế gồm xứ Cochinchine và xứ Trường Sa. Các sách địa lý và lịch sử của Việt
Đông Kinh(12) … một vài đảo có dân cư không Nam từ thế kỷ XVII đã ghi lại kết quả các
xa bờ biển và quần đảo Paracel do những đảo cuộc khảo sát đó.
nhỏ, ghềnh và đá không có dân cư hợp Trong Toàn tập Thiên nam tứ chí lộ đồ thư
thành…”(13). (thế kỷ XVII): “Giữa biển có một bãi cát dài,
Giám mục J.L. Taberd, trong bài “Ghi chép gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20
về địa lý nước Cochinchine” xuất bản năm dặm, đứng dựng giữa biển, từ cửa Đại Chiêm(17)
1837, cũng mô tả “Pracel hay Paracels” là phần đến cửa Sa Vinh(18) mỗi lần có gió Tây Nam
lãnh thổ nước Cochinchine và nói rõ người thương thuyền các nước đi ở phía ngoài trong
Cochinchine goi Pracel hay Paracels là “Cát trôi dạt ở đấy, có gió Đông Bắc thì thương
Vàng”14. Trong An Nam đại quốc hoạ đồ xuất thuyền đi ở phía ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều
bản năm 1838, ông đã vẽ một phần của Paracel cùng chết đói hết cả, hàng hoá thì đều để lại ở
và ghi “Paracel hay Cát Vàng” (Paracel seu Cát nơi đó”(19).
Vàng) ở ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn
Nam, vào khu vực quần đảo Hoàng Sa hiện (1776): “Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, Phủ
nay(15). Quảng Nghĩa ở gần biển, ngoài biển về phía
Trong bài “Địa lý vương quốc Đông Bắc, có nhiều cù lao, các núi(20) linh tinh
Cochinchina(16) của Gutzlaff, xuất bản năm hơn 130 hòn cách nhau bằng biển, từ hòn này
1849 có đoạn nói rõ Paracels thuộc lãnh thổ sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì
Việt Nam và chú thích cả tên Việt Nam là “Kát đến. Trên núi có chỗ có nước ngọt. Trong đảo
Vàng”. có bãi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng
phẳng, rộng lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo
17 tháng 7 năm 1941 - Danh từ Vương quốc An Nam có vô số tổ yến, các thứ chim có hàng ngàn
trong tài liệu chỉ nước Việt Nam thời bấy giờ. hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không
(11)
Danh từ Cochinchine (tiếng Pháp) hoặc Cochinchina trách, trên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc hoa thì có tai
(tiếng Anh) trong tài liệu phương Tây trích dẫn ở đây có voi, to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu
hai nghĩa tuỳ theo văn cảnh: a) Nước Việt Nam thời bấy
giờ, sách này dịch là nước Cochinchine; b) Xứ Đàng
ngón tay, sắc đục không như ngọc trai, cái vỏ
Trong thời bấy giờ, sách này dịch là xứ Cochinchine. có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi
(12)
Tức Đàng Ngoài (le Tonkin). xây nhà; có ốc xà cừ để khảm đồ dùng; lại có ốc
(13)
A.Salles trích dẫn trong bài “Hồi ký về nước hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn
Cochinchine của J.B. Chaigneau” (Le mémoire sur la được... Các thuyền ngoại phiên gặp bão thường
Chochinchine de J.B. Chaigneau) đăng trong “Tạp chí của
những người bạn thành Huế cổ” (“Bulletin des amis du bị hư hại (21) ở đảo này...
vieux Huế”) số 2 năm 1923 tr. 257.
(14)
“Ghi chép về địa lý nước Cochinchina” (“Note on ______
(17)
Geography of Cochinchina”) của giám mục Jean-Louis Cửa Đại chiêm nay là cửa Đại, thuộc tỉnh Quảng Nam.
(18)
Taberd đăng trong “Tạp chí của Hội châu Á Băng-Gan” Cửa Sa Vinh nay là cửa Sa Huỳnh, thuộc tỉnh Quảng
(The Journal of the Asiatic Society of Bengal) tập VI, Ngãi.
(19)
1837, tr.745. Bãi Cát Vàng từ lâu là khu vực có nhiều đá ngầm nguy
(15)
Đính trong cuốn “Từ điển La Tinh - Việt Nam” hiểm ở Biển Đông.
(20)
(Dictionarium Latino-Anamiti-cum), 1838. Về từ “núi” xin xem chú thích phía trên.
(16) (21)
Bài “Địa lý vương quốc Cochinchina” (Geograpphy of Trong Phủ biên tạp lục, vốn là chữ “hoại”, nghĩa là
the Cochinchinese Empire) đăng trong “Tạp chí Hội địa lý “hư hại” có bản chép lầm là chữ “ỷ”, nghĩa là “dựa vào”,
Hoàng gia Luân Đôn” (The Jounal of the Royal nên trong Lê Quý Đôn toàn tập, tập I, Nhà xuất bản Khoa
Geography Sociely of London) tập XIX, 1849, tr.93. học Xã hội xuất bản năm 1977 đã dịch là “đậu”.
154 N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168
Đại Nam thực lục tiền biên, Bộ sử về chúa cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến (Bãi
Nguyễn do Quốc sử quán nhà Nguyễn soạn Cát Vàng) lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng
xong năm 1844, có đoạn viết: “Xã An Vĩnh, bạc, tiền tệ, súng đạn”.
huyện Bình Sơn, Phủ Quảng Nghĩa ở ngoài Trong Phủ biên tạp lục (1776): “Trước họ
biển, có hơn 130 bãi cát, cách nhau hoặc một Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã
ngày đường hoặc vài trống canh, kéo dài không An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng
biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Trường ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu
Sa. Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền tiểu câu(23) ra biển
sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, v.v…”. 3 ngày 3 đêm thì đến các đảo ấy rồi ở lại đó.
Trong Đại Nam nhất thống chí (1882): Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy
“Đảo Hoàng Sa: ở phía Đông Cù Lao Ré huyện được hoá vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa
Bình Sơn, từ bờ biển Sa Kỳ ra khơi thuận gió, bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì
ba bốn ngày đêm có thể đến. Ở đó có đến hơn đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên
130 đảo nhỏ, cách nhau hoặc một ngày đường cùng là kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải
hoặc vài trống canh. Trong đảo có bãi cát vàng, sâm, hột ốc hoa, rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì
liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm tục về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp.
gọi là Vạn Lý Trường Sa. Trên bãi có giếng Cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng
nước ngọt, chim biển tụ tập không biết cơ man các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở
nào. Sản xuất nhiều hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, về”. “…Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không
vích… Hoá vật của các tàu thuyền bị nạn bão định bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính
trôi giạt ở đấy”. ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai
Theo Đại Nam thực lục chính biên, bộ sử về tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền
nhà Nguyễn soạn xong năm 1848, sau khi hoàn sưu cùng các tiền tuần đó, cho đi thuyền tiểu
thành nhiệm vụ đo đạc vẽ bản đồ Hoàng Sa trở câu ra các xứ Bắc Hải, Cù Lao Côn Lôn và các
về, đội trưởng giám thành Trương Phúc Sĩ đã đảo ở Hà Tiên, tìm lượm hoá vật của tàu và các
tâu với Vua Minh Mệnh rằng Hoàng Sa “là thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai
những bãi cát giữa biển, man mác không bờ cai đội Hoàng Sa kiêm quản”.
bến” (22). Trong Đại Nam thực lục tiền biên (1844):
Các sách khác thời Nguyễn như Lịch triều “Hồi đầu dựng nước, đặt đội Hoàng Sa gồm 70
hiến chương loại chí (1821), Hoàng Việt địa dư người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm
chí (1833), Việt sử cương giám khảo lược (1876) đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, độ ba ngày đêm đi
cũng mô tả Hoàng Sa một cách tương tự. đến, thu lượm hoá vật, đến tháng 8 trở về nộp.
Lại có độ Bắc Hải mộ dân ở phường Tứ Chính
Do đặc điểm của Hoàng Sa và Trường Sa
ở Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào,
là có nhiều hải sản quý lại có nhiều hoá vật
được lệnh di thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn
của tàu bị đắm như trên đã nói, Nhà nước
Lôn thu lượm hoá vật. Đội này cũng do đội
phong kiến Việt Nam từ lâu đã tổ chức việc
Hoàng Sa kiêm quản”.
khai thác hai quần đảo đó với tư cách một
quốc gia làm chủ. Nhiều sách lịch sử và địa lý Kế tiếp các chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn
cổ của Việt Nam đã nói rõ tổ chức, phương phải liên tiếp đối phó với sự xâm lược của nhà
thức hoạt động của các đội Hoàng Sa có Thanh và của Xiêm, tuy vậy vẫn luôn luôn
nhiệm vụ làm việc khai thác đó. quan tâm đến việc duy trì và sử dụng các đội
Hoàng Sa. Trong số tư liệu còn tìm thấy ngày
Trong Toản tập Thiên Nam tứ chi lộ đồ thư
nay, có thể kể tờ sai sau đây để năm 1786 của
(thế kỷ XVII): “Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng
______
______ (23)
Loại thuyền của ngư dân Việt Nam dùng để đánh cá
(22)
Kỷ thứ 2, quyển 122. ngoài khơi.
N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168 155
quan Thượng tướng công: “Sai cai Hội Đức - Năm 1836, chuẩn y lời tâu của Bộ Công,
Hầu đội Hoàng Sa dẫn bốn chiếc thuyền vượt vua Minh Mệnh sai suất đội thuỷ quân Phạm
câu vượt biển đến thẳng Hoàng Sa và các cù lao Hữu Nhật đưa binh thuyền ra Hoàng Sa đo đạc,
trên biển thu lượm đồ vàng bạc, đồ đồng và đại vẽ bản đồ. Yêu cầu của công việc đo đạc, vẽ
bác, tiểu bác(24), đồi mồi, hải ba cùng cá quý bản đồ đã được Đại Nam thực lực chính biên
mang về kinh đô dâng nộp theo lệ”. Nghĩa là ghi lại rất chi tiết: “Không cứ là đảo nào, bãi cát
thời Tây Sơn, Nhà nước vẫn tiếp tục tổ chức nào, khi thuyền đi đến cũng xem xét xứ ấy
việc khai thác Hoàng Sa với ý thức thực hiện chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng,
chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa. chu vi, và nước biển xung quanh nông hay sâu,
Từ khi nắm chính quyền năm 1802 đến có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm
khi ký với Pháp hiệp ước 1884, các vua nhà trở, bình dị thế nào phải tường tận đo đạc, vẽ
Nguyễn ra sức củng cố chủ quyền của Việt thành bản đồ. Lại xét ngày khởi hành từ cửa
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi
Trường Sa. đến xứ ấy, căn cứ vào đường đi tính ước được
bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ biển,
Đại Nam thực lục chính biên (1848) chép rõ
đối thẳng là vào tỉnh hạt nào, phương nào, đối
một số việc làm của các vua nhà Nguyễn củng
chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào,
cố chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo
cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm, nhất nhất
như sau:
nói rõ, đem về dâng trình”(30).
- Năm 1815, vua Gia Long “cử Phạm
Đại Nam thực lục chính biên cũng chép rõ
Quang Ảnh dẫn đội Hoàng Sa đi thuyền ra
những bài gỗ mà Phạm Hữu Nhật mang theo để
Hoàng Sa để khảo sát và đo đặc đường biển”(25).
làm dấu chủ quyền đối với những nơi đã đến
- Năm 1816, vua Gia Long “lệnh cho thuỷ theo lệnh của nhà vua khắc những chữ sau đây:
quân cùng đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa để khảo “Năm Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân
sát và đo đặc đường biển” (26). (1836), thủy quân chánh đội trưởng suất đội
- Năm 1833, vua Minh Mệnh chỉ thị cho Bộ Phạm Hữu Nhật vâng lệnh ra Hoàng Sa trông
Công chuẩn bị thuyền để năm sau sẽ phái tới nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”.
Hoàng Sa dựng miếu, lập bia, trồng nhiều cây Các vua Nguyễn không phải chỉ lo đến chủ
cối (27). quyền và quyền lợi của nước mình ở hai quần
- Năm 1834, vua Minh Mệnh cử đội trưởng đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà còn lo bảo
giám thành Trương Phúc Sĩ cùng thuỷ quân hơn đảm an toàn cho tàu thuyền nước ngoài qua lại
20 người ra Hoàng Sa vẽ bản đồ (28). vùng biển của hai quần đảo đó. Năm 1833, vua
- Năm 1835, vua Minh Mệnh sai đội thủy Minh Mệnh bảo Bộ Công rằng: “Trong hải
quân Phạm Văn Nguyên đem lính và thợ giám phận Quảng Nghĩa, có một dải Hoàng Sa, xa
thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Nghĩa, trông trời nước một màu không phân biệt được
Bình Định chuyên chở vật liệu đến Hoàng Sa nông hay sâu. Gần đây thuyền buôn thường bị
dựng miếu. Bến trái miếu dựng bia đá, phía nạn. Nay nên dự bị thuyền mành đến sang năm
trước miếu xây bình phong (29). sẽ phái người tới đó… trồng nhiều cây cối.
Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận
biết, có thể tránh được nạn mắc cạn. Đó cũng là
______ việc lợi muôn đời”(31). Đó chính là ý thức trách
(24)
Chỉ loại pháo cỡ nhỏ. nhiệm cao của một Nhà nước thật sự làm chủ
(25)
Quyển 50, kỷ thứ nhất.
(26)
Quyển 52, kỷ thứ nhất.
(27)
Quyển 104, kỷ thứ hai. ______
(28) (30)
Quyển 122, kỷ thứ hai. Quyển 165, kỷ thứ hai.
(29) (31)
Quyền 154, kỷ thứ hai. Quyển 104, kỷ thứ hai.
156 N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đối biển để hướng dẫn các tàu biển qua lại vùng
với hàng hải quốc tế trong khu vực này. này, nhưng kế hoạch không thực hiện được vì
Như vậy, qua các sách lịch sử, địa lý cổ thiếu ngân sách.
của Việt Nam cũng như chứng cứ của nhiều Từ năm 1920, các tàu hải quan Đông
nhà hàng hải, giáo sĩ phương Tây nói trên, từ Dương tăng cường tuần tiễu ở vùng Hoàng Sa
lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm từ để ngăn chặn buôn lậu.
triều đại này đến triều đại khác, Nhà nước Năm 1925, Viện Hải dương học Nha Trang
Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa cử tàu De Lanessan ra khảo sát ở quần đảo
và Trường Sa. Sự có mặt đều đặn của các đội Hoàng Sa về hải dương học. Ngoài A.Krempf,
Hoàng Sa do Nhà nước thành lập trên hai giám đốc Viện hải dương học, còn có các nhà
quần đảo đó mỗi năm từ 5 đến 6 tháng để khoa học khác như Delacour, Jabouille…nghiên
hoàn thành một nhiệm vụ do Nhà nước giao cứu về địa chất, về sinh vật… Ngày 3/3/1925,
tự nó đã là một bằng chứng đanh thép về việc Thượng thư Bộ Binh của Triều đình Huế Thận
Nhà nước Việt Nam thực hiện chủ quyền của Trọng Huề lại khẳng định Hoàng Sa là lãnh thổ
mình đối với hai quần đảo đó. Việc chiếm hữu Việt Nam.
và khai thác đó của Nhà nước Việt Nam
Năm 1927, tàu De Lanessan ra khảo sát
không bao giờ gặp phải sự phản đối của một
khoa học quần đảo Trường Sa.
quốc gia nào khác, kể cả Trung Quốc. Điều đó
càng chứng tỏ từ lâu quần đảo Hoàng Sa và Năm 1929, phái đoàn Perrier - De Rouville
quần đảo Trường Sa đã là lãnh thổ Việt Nam. đề nghị đặt 4 cây đèn biển ở 4 góc của quần đảo
Hoàng Sa (đảo Tri Tôn, đảo Đá Bắc, đảo Linh
Côn, bãi Bom Bay).
2. Chứng cứ minh chứng cho việc nước Pháp Năm 1930, tàu thông báo La Malicieuse tới
nhân danh Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực quần đảo Hoàng Sa.
hiện chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa
Tháng 3/1931, tàu Inconstant ra quần đảo
và quần đảo Trường Sa(32)
Hoàng Sa.
Từ khi ký với triều đình nhà Nguyễn Hiệp Tháng 6/1931, tàu De Lanessan ra quần đảo
ước ngày 06/6/1884, Pháp đại diện quyền lợi Hoàng Sa.
của Việt Nam trong quan hệ đối ngoại và việc Tháng 5/1932, pháo hạm Alerte ra quần đảo
bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Hoàng Sa.
Nam. Trong khuôn khổ sự cam kết chung đó, Từ 13/4/1930 đến 12/4/1933, chính phủ
Pháp đại diện cho Việt Nam, tiếp tục thực hiện Pháp đã cử các đơn vị hải quân lần lượt ra đóng
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo các đảo chính trong quần đảo Trường Sa:
Hoàng Sa và Trường Sa. Trường Sa (Spratley), An Bang (Caye d’
Sau đây là một số minh chứng cụ thể: Amboine), Itu Aba, nhóm Song Tử (groupe des
Các pháo hạm của Pháp thường xuyên tiến deux iles) (33), Loại Ta, Thị Tứ.
hành tuần tiễn trong vùng Biển Đông kể cả Ngày 21/12/1933, thống đốc Nam Kỳ
Hoàng Sa và Trường Sa. M.j.Krautheimer ký Nghị định sát nhập các đảo
Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương Paul Trường Sa, An Bang, Itu Aba, nhóm Song Tử,
Doumer đề nghị với Paris xây tại đảo Hoàng Sa Loại Ta và Thị Tứ vào địa phận tỉnh Bà Rịa (34).
(Pattle) trong quần đảo Hoàng Sa một cây đèn Năm 1937, nhà đương cục Pháp của kỹ sư
công chính Ganthier ra quần đảo Hoàng Sa
______
(32)
Xem thêm: Bộ Ngoại giao Việt Nam, Sách trắng, ______
(33)
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa Bộ phận lãnh Tức là đảo Song Tử Tây và đảo Song Tử Đông.
(34)
thổ của Việt Nam năm 1979, 1981. Các đảo này nay thuộc tỉnh Khánh Hòa.
N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168 157
nghiên cứu chỗ xây dựng đèn biển, lập bãi thủy 3. Việc bảo vệ và thực hiện chủ quyền của
phi cơ. Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và
Tháng 2/1937, tuần dương hạm Lamotle Trường Sa từ chiến tranh thế giới thứ hai
Piquet do phó đô đốc Istava chỉ huy thăm quần đến nay
đảo Hoàng Sa.
Khi Chiến tranh thế giới lần thứ II còn đang
Ngày 30/3/1938, vua Bảo Đại ký Dụ tách tiếp diễn, ngày 27/11/1943 tại Hội nghị Cairo
quần đảo Hoàng Sa khỏi địa hạt tỉnh Nam (Ai Cập), ba cường quốc đồng minh đại diện
Nghĩa đặt vào tỉnh Thừa Thiên (35) bởi Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt, Thủ tướng
Ngày 15/6/1938, Toàn quyền Đông Dương Anh Churchill và Tổng thống Trung Hoa Dân
Jules Brévié ký Nghị định thành lập một đơn vị quốc Tưởng Giới Thạch đã ký Tuyên cáo Cairo,
hành chính tại quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh theo đó: “Phải tước bỏ quyền của Nhật Bản trên
Thừa Thiên. tất cả các hải đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật
Năm 1938, chính quyền Pháp dựng bia chủ Bản đã cưỡng đoạt hay chiếm đóng từ đầu
quyền, xây dựng xong đèn biển, trạm khí tượng, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và trả lại
đài vô tuyến điện ở đảo Hoàng Sa, trong quần Trung Hoa Dân quốc tất cả các lãnh thổ đã bị
đảo Hoàng Sa, xây dựng trạm khí tượng, đài vô Nhật Bản cướp của Trung Hoa, như Mãn Châu,
tuyến điện ở đảo Itu Aba trong quần đảo Đài Loan và Bành Hồ, và trục xuất Nhật Bản
Trường Sa. khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà Nhật chiếm
Ngày 5/5/1939, Toàn quyền Đông Dương được bằng vũ lực”(36). Như vậy, các quần đảo
Jules Brévié ký Nghị định sửa đổi Nghị định ngày Hoàng Sa và Trường Sa không hề được đề cập
15/6/1938 nói trên và thành lập tại quần đảo Hoàng đến trong điều ước quốc tế quan trọng này,
Sa hai cơ quan đại ký “Croissant và các đảo phụ cũng không thể được giao cho Trung Quốc và
thuộc”, “Amphitrite và các đảo phụ thuộc”. do đó càng chứng tỏ hai quần đảo này là thuộc
chủ quyền của Việt Nam. Điều đáng lưu ý,
Suốt trong thời gian đại diện Việt Nam về Trung Quốc là một bên tham gia bản Tuyên cáo
mặt đối ngoại, Pháp luôn luôn khẳng định chủ và đích thân Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã
quyền của Việt Nam đối với các quần đảo có mặt tại các cuộc hội đàm kéo dài nhiều ngày
Hoàng Sa và Trường Sa và phản kháng những ở Hội nghị Cairo nhưng không hề có sự đề cập
hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền đến việc chuyển giao hai quần đảo Hoàng Sa và
của Việt Nam ở hai quần đảo đó như: Trường Sa cho Trung Quốc.
Ngày 4/12/1931 và ngày 24/4/1932, Pháp Năm 1931, Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu
phản kháng Chính phủ Trung Quốc về việc với ý đồ thành lập Nhà nước Mãn Châu. Trước
chính quyền Quảng Đông lúc đó có ý định cho đó, trong Chiến tranh Trung-Nhật (1894-1895),
đấu thầu khai thác phân chim trên quần đảo đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ cũng bị
Hoàng Sa. Ngày 24/7/1933, Pháp thông báo cho Nhật Bản chiếm cứ bằng vũ lực. Vì vậy, trong
Nhật việc Pháp đưa quân ra đóng các đảo chính Tuyên Cáo Cairo năm 1943, Tổng thống
trong quần đảo Trường Sa, Nhật đã phản kháng Roosevelt và Thủ tướng Churchill tán thành đề
nhưng Pháp đã bác bỏ sự phản kháng đó của nghị của Tổng thống Tưởng Giới Thạch về việc
Nhật. Ngày 4/4/1939, Pháp phản kháng Nhật Đồng Minh sẽ bàn giao Mãn Châu, Đài Loan và
đặt một số đảo trong quần đảo Trường Sa thuộc
quyền tài phán của Nhật.
______
(36)
Foreign Relations of the United States, Diplomatic
Paper: The Conferences at Cairo and Teheran 1943,
Washington D.C, United States, G.P.O, 1961, pp. 448-
______ 449; Lazar Focsaneanu: “Các hiệp ước hòa bình của Nhật
(35)
Tỉnh Thừa Thiên nay là tỉnh Thừa Thiên Huế. Bản”, Niên giám luật quốc tế của Pháp, 1960, tr. 256.
158 N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168
quần đảo Bành Hồ cho Trung Quốc khi chiến hàng. Như vậy, giá trị Tuyên cáo Cairo đã được
tranh kết thúc. xác lập trên cơ sở những thỏa thuận không ai có
Tại Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và thể phủ nhận được”(37).
Trường Sa của Việt Nam cũng đã bị Nhật Bản Tuyên cáo Cairo ngày 27/11/1943 cũng đã
chiếm cứ bằng vũ lực khi bắt đầu Chiến tranh được đại diện Liên Xô tán thành tại Hội nghị
Thế giới thứ II. Năm 1938, Nhật Bản chiếm 03 Teheran ngày 30/11/1943 giữa Tổng thống
(ba) đảo tại Hoàng Sa là Phú Lâm, Lincoln và Roosevelt, Thủ tướng Churchill và Nguyên soái
Hữu Nhật (Robert). Năm 1939, Nhật Bản ngang Stalin. Trong phiên Hội nghị này, Stalin cho
ngược công bố chủ quyền tại hai quần đảo biết ông đã đọc Tuyên cáo Cairo với đầy đủ nội
Hoàng Sa Trường Sa và đổi tên Hoàng Sa thành dung của nó và cho rằng việc giao hoàn Mãn
Hirata Gunto, Trường Sa thành Shinnan Gunto. Châu, Đài Loan và Bành Hồ cho Trung Quốc là
Theo pháp luật quốc tế hiện đại, Tuyên cáo hợp lý. Tuy nhiên, Stalin cũng không hề đề cập
Cairo năm 1943 là một điều ước quốc tế không đến việc đến chuyển giao quần đảo Hoàng Sa
những xác lập quyền mà còn ấn định những và Trường Sa cho Trung Quốc (38). Theo luật
nghĩa vụ quốc tế có giá trị ràng buộc các quốc gia người Pháp GS.Monique Chemillier-
gia hữu quan. Vì vậy, với tư cách là một bên Gedreau: “Việc không nói tới các quần đảo
tham gia điều ước quốc tế, Trung Quốc - dù là Hoàng Sa và Trường Sa trong Tuyên cáo Cairo
Trung Hoa Dân quốc hay Cộng hòa Nhân dân năm 1943 thật là đặc biệt. Nó không thể là kết
Trung Hoa (quốc gia kế thừa) - đều có nghĩa vụ quả của một sự tình cờ. Không có một bảo lưu
tuân thủ cam kết quốc tế này. Ngay thời gian cũng như một tuyên bố riêng rẽ nào của Trung
sau đó, cả hai phía Trung Hoa Dân quốc và Quốc về vấn đề các lãnh thổ này”(39).
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đều thừa nhận Sau khi Đức Quốc xã đầu hàng Đồng Minh,
giá trị pháp lý của bản Tuyên cáo này. Ví dụ, tháng 7 năm 1945, các nước Mỹ, Anh và Liên
ngày 04/12/1950, Chu Ân Lai - lúc này là Bộ Xô tổ chức Hội nghị Potsdam (tại Đức) để thảo
trưởng Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân luận về những biện pháp chế tài áp dụng cho
Trung Hoa - đã tuyên bố tán thành Bản Tuyên nước Đức và về tương lai chính trị của các nước
cáo Cairo năm 1943 là “văn kiện lịch sử quốc tế Đông Âu và Trung Âu sau Thế chiến thứ II.
mà Hoa Kỳ, Anh Quốc và Trung Quốc đã ký Hội nghị diễn ra từ ngày 16/7/1945 đến ngày
kết để làm cơ sở Hiệp ước San Francisco ngày 02/8/1945. Tại Hội nghị này, hai văn bản pháp
8/9/1951”. Ngày 8/02/1955, mười hai năm sau lý quốc tế quan trọng đã được ký kết: Hiệp định
khi ký Tuyên cáo Cairo, Tổng thống Trung Hoa Potsdam ngày 02/8/1945 được ký bởi đại diện
Dân quốc Tưởng Giới Thạch cũng đã thừa nhận của 03 cường quốc phe Đồng Minh là Liên Xô,
giá trị của Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Anh, Mỹ, cùng với bản Tuyên bố Potsdam ngày
Potsdam là: “Tôi còn nhớ năm 1943, cố Tổng 26/7/1945 được ký bởi Winston Churchill,
thống Hoa Kỳ Roosevelt và Thủ tướng Anh Harry Truman và Tưởng Giới Thạch. Bản
Churchill đã cùng tôi họp Hội nghị Cairo để Tuyên bố Potsdam đã yêu cầu Nhật Bản đầu
thảo luận về những vấn đề liên quan đến việc hàng vô điều kiện và gián tiếp ấn định thể thức
tiến hành cuộc chiến tranh chống Nhật. Trong giải giáp quân đội Nhật Bản tại Thái Bình
bản Tuyên cáo công bố vào ngày bế mạc Hội
nghị (27/11/1943), chúng tôi loan báo rằng tất ______
(37)
Review of International Situation, China Publishing
cả các lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm của Co, Taipei 1956, pp 22-23.
Trung Quốc, kể cả Đông Bắc Tỉnh (Mãn Châu), (38) The Conferences at Cairo and Tehran 1943, The
Đài Loan và Bành Hồ, phải được giao hoàn cho Foreign Relations of the United States, Washington D.C,
Trung Quốc. Bản Tuyên cáo này đã được Bản 1961.
(39)
Monique Chemillier- Gendreau, Chủ quyền trên hai
Tuyên bố Potsdam ngày 26/7/1945 thừa nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, NXB Chính trị Quốc
và được Nhật Bản chấp nhận thi hành khi đầu gia, Hà Nội, 1998, tr.136.
N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168 159
Dương. Để giải giáp quân đội Nhật, Đồng Minh nghị theo mục đích và tôn chỉ của Hiến chương
quyết định chia Việt Nam thành hai khu vực, Liên hợp quốc.
lấy vĩ tuyến 16 làm mốc: quân đội Trung Hoa Theo Điều 2 của Hiệp ước, Nhật Bản
Dân quốc có nghĩa vụ giải giáp và hồi hương khước từ chủ quyền tại đảo Đài Loan và quần
quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 Bắc, còn quân đội đảo Bành Hồ và một số lãnh thổ trong đó có các
Anh được ủy nhiệm giải giáp quân đội Nhật từ quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
vĩ tuyến 16 vào Nam. Theo quyết định của Hội
Khi Nhật Bản tuyên bố khước từ chủ quyền
nghị Potsdam (40), Trung Quốc có nghĩa vụ giải
lãnh thổ về Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội
giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 ra Bắc bao
nghị San Francisco năm 1951, các quốc gia
gồm cả quần đảo Hoàng Sa (tọa lạc từ vĩ tuyến
tham dự Hội nghị đã phủ nhận chủ quyền của
16, như nhóm Lưỡi Liềm (Crescent Group)
Trung Quốc và mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền
phía tây nam tại vĩ độ 16°30 và Nhóm An Vĩnh
của Việt Nam tại hai quần đảo này. Ngày 5-9-
(Amphitrite Group) phía đông bắc tại vĩ độ
1951, trong phiên họp toàn thể, theo đề nghị
16°50); còn quân đội Anh có nghĩa vụ giải giáp
của đại diện Liên Xô (Ngoại trưởng Andrei
quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 vào Nam, bao
Gromyko), một tu chính án đã được đưa ra yêu
gồm cả tại quần đảo Trường Sa. Cần lưu ý rằng,
cầu Hội nghị trao một loạt lãnh thổ, trong đó có
việc giải giáp quân sự theo pháp luật quốc tế
các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa (Nam Sa
không thể là sự tiếp thu hay chiếm hữu lãnh
và Tây Sa) cho Trung Quốc. Nhưng tu chính án
thổ. Vì vậy, hiển nhiên cả Anh và Trung Quốc
này đã bị Hội nghị bác bỏ với 46 phiếu chống,
đều không thể có chủ quyền lãnh thổ tại Trường
03 phiếu thuận (Ba Lan, Tiệp Khắc và Liên Xô)
Sa và Hoàng Sa thông qua hành vi giải giáp
và 01 phiếu trắng(41).
quân sự được các nước Đồng Minh ủy quyền.
Ngày 07-9-1951, trong phiên họp toàn thể
Sự kiện này càng chứng tỏ rằng, khác với
lần thứ 7 của Hội nghị San Fransisco, Thủ
Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ, các nước
tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu,
Đồng Minh không thừa nhận Hoàng Sa, Trường
Trưởng Phái đoàn Việt Nam đã tuyên bố chủ
Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc, và như
quyền của Việt Nam tại các quần đảo Trường
vậy đã gián tiếp khẳng định chủ quyền không
Sa và Hoàng Sa, khẳng định quần đảo Hoàng
thể tranh cãi của Việt Nam đối với Hoàng Sa và
Sa và quần đảo Trường Sa là bộ phận của lãnh
Trường Sa.
thổ Việt Nam: “…để dập tắt những mầm mống
Ngày 14-10-1950, chính phủ Pháp chính các tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định
thức trao lại cho chính quyền Bảo Đại việc chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi đối
quản lý hai vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa. với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.
Ngày 8-9-1951, sáu năm sau khi thành lập Tuyên bố đó không gặp sự chống đối hoặc bảo
Liên hợp quốc (tháng 6 năm 1945), 48 quốc gia lưu nào của đại diện 51 quốc gia tham dự Hội
Đồng Minh lại nhóm họp tại San Fransisco để nghị (kể cả Liên Xô).
ký Hiệp ước San Fransisco nổi tiếng với Nhật Như vậy, sự công bố chủ quyền của Việt
Bản, nhằm chấm dứt tình trạng chiến tranh, Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa trước 50
phục hồi và tái thiết Nhật Bản, vãn hồi hòa bình quốc gia hội viên thành lập Liên hợp quốc tại
thế giới trong tinh thần hòa giải, hợp tác và hữu Hội nghị San Francisco năm 1951 chứng tỏ
rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã
được các quốc gia trên thế giới thừa nhận là
______ thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Việc
(40)
Xem: Dương Trung Quốc, Việt Nam những sự kiện
lịch sử (1919-1945), NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr.424; ______
(41)
Lưu Văn Lợi, Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần Monique Chemillier - Gendreau, Chủ quyền trên hai
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, NXB Công an Nhân dân, Hà quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, NXB Chính trị Quốc
Nội, 1995, tr.80 gia, Hà Nội, 1998, tr.137.
160 N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168
92% các quốc gia Đồng Minh hội viên Liên khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa về hải dương,
hợp quốc thừa nhận chủ quyền của Việt Nam địa chất, địa lý, môi sinh.
tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có giá Chính phủ Sài Gòn, sau đó là cả Chính
trị pháp lý quốc tế bắt buộc (41). phủ Sài Gòn và chính phủ Cách mạng lâm
Một minh chứng nữa là khi ký một điều ước thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, cũng đều
quốc tế với Nhật ngày 28/4/1952, Trung Hoa thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với
Dân quốc đã ghi nhận việc từ bỏ mọi quyền của quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường
Nhật đối với các đảo, nhưng lại không đưa vào Sa(43).
Hiệp ước song phương này bất kỳ điều khoản Dưới đây là một số minh chứng cụ thể:
nào về sự quy thuộc của hai quần đảo Hoàng Sa
Tháng 4 năm 1956, khi Pháp rút quân khỏi
và Trường Sa.
Đông Dương kể cả ở Hoàng Sa và Trường Sa,
Theo luật gia người Pháp GS.Monique chính quyền Sài Gòn tiếp quản các quần đảo
Chemillier - Gendreau, “chính các điều khoản Trường Sa và nhóm đảo phía Tây quần đảo
của các hòa ước với Nhật Bản (tập thể hay riêng Hoàng Sa (nhóm đảo Lưỡi Liềm- Nguyệt
rẽ), các tuyên bố nêu trong đó hay làm nguồn Thiềm). Còn nhóm đảo phía Đông Hoàng Sa
gốc cho các hiệp ước đó, cho thấy sau năm (nhóm An Vĩnh ), do phía Việt Nam chưa kịp ra
1949, Trung Hoa Dân quốc là nước bảo đảm sự tiếp quản, đã bị quân đội Trung Quốc chiếm
liên tục của Chính phủ Trung Quốc duy nhất đóng.
trước đó, đã không khẳng định bất kỳ yêu sách
Ngày 8/6/1956, Bộ trưởng Ngoại giao Sài
nào trên các quần đảo trong dịp có Bản Tuyên
Gòn ra tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối
cáo Cairo và đã thừa nhận song phương sự từ
với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
bỏ của Nhật Bản mà không đưa ra yêu sách của
chính mình” đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Năm 1956, Sở Hầm mỏ, kỹ nghệ và tiểu
Trường Sa… cho phép kết luận là Trung Hoa công nghiệp miền Nam tổ chức một cuộc khảo
Dân quốc khi đó đã từ bỏ việc khẳng định các sát với sự giúp đỡ của hải quân Chính quyền
quyền của mình đối với các hòn đảo tranh Sài Gòn trên 04 đảo: Hoàng Sa (Pattle), Quang
chấp” (42). Ảnh (Money), Hữu Nhật (Robert), Duy Mộng
(Drumond).
Ba năm sau Hội Nghị San Francisco 1951,
Hội Nghị Geneva 1954 với sự tham dự của 09 Ngày 22/10/1956, Chính quyền Sài Gòn đặt
quốc gia, gồm 05 cường quốc: Hoa Kỳ, Anh, quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy.
Pháp, Liên Xô và Trung Quốc đã minh thị xác Ngày 13/7/1961, Chính quyền Sài Gòn đặt
nhận chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo quần đảo Hoàng Sa, trước kia thuộc tỉnh Thừa
Hoàng Sa và Trường Sa tại Hiệp định Genevơ Thiên, vào tỉnh Quảng Nam và thành lập tại
ký ngày 21/7/1954. quần đảo này một xã lấy tên là xã Định Hải,
Trên thực tế, khi trở lại Việt Nam sau chiến trực thuộc quận Hòa Vang và đặt dưới quyền
tranh thế giới thứ hai, trong vùng chiếm đóng một phái viên hành chính.
của mình, nhà cầm quyền Pháp đã phái chiến Từ 1961 đến 1963, chính quyền Sài Gòn lần
hạm ra quần đảo Hoàng Sa, xây dựng lại trạm lượt cho xây bia chủ quyền ở các đảo chính của
khí tượng trên đảo Hoàng Sa và chống lại các quần đảo Trường Sa: Trường Sa, An Bang,
hành động lấn chiếm của Trung Quốc. Năm Song Tử Tây, Song Tử Đông, Thị Tứ, Loại Ta.
1953, tàu Ingenieur en elef Girod của Pháp
______
(41)
Conference for the Conclusion and Signature of the ______
(43)
Peace Treaty with Japan, U. N. Treaty Series, Volume Xem thêm: Bộ Ngoại giao Việt Nam, Sách trắng,
136, p. 46. Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa Bộ phận lãnh
(42)
Monique Chemillier-Gendreau, tldd. thổ của Việt Nam các năm 1979, 1981.
N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168 161
Ngày 21/10/1969, chính quyền Sài Gòn sát nhóm đảo phía Tây nam của quần đảo Hoàng
nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long cũng thuộc Sa, ngày 19/1/1974 chính quyền Sài Gòn đã
quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. tuyên bố lên án Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Tháng 7/1973, Viện Khảo cứu nông nghiệp xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
thuộc Bộ phát triển nông nghiệp và điền địa Sài Tiếp đó, ngày 14/2/1974 Chính phủ Việt Nam
Gòn tiến hành khảo sát Nam Ai (Nam Yit) Cộng hòa đã ra tuyên bố khẳng định quần đảo
thuộc quần đảo Trường Sa. Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ
phận của lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời, ngày
Tháng 8/1973, với sự hợp tác của Công ty
26/1/1974, Chính phủ cách mạng lâm thời
Nhật Maruben Corporation, Bộ Kế hoạch và
Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng đã tuyên
phát triển quốc gia Sài Gòn tiến hành khảo sát
bố lập trường ba điểm về việc giải quyết các
phốt phát ở quần đảo Hoàng Sa.
vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Ngày 28/6/1974, đại
Ngày 6/9/1973, Chính quyền Sài Gòn sáp diện Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tuyên bố
nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, tại khóa họp thứ nhất Hội nghị luật biển lần thứ
Song Tử Đông, Song Tử Tây, Loại Ta, Thị Tứ, 3 ở Caracas rằng quần đảo Hoàng Sa và quần
Nam Ai, Sinh Tồn và các đảo phụ cận vào xã đảo Trường Sa là của Việt Nam. Ngày 5 và
Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy. 6/5/1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng
Có ý thức về chủ quyền từ lâu đời của Việt hoà miền Nam Việt Nam thông báo việc giải
Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo phóng các đảo ở quần Trường Sa do quân đội
Trường Sa, các chính quyền miền Nam Việt Sài Gòn đóng giữ. Chính phủ cách mạng lâm
Nam đều bảo vệ chủ quyền đó mỗi khi có thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiếp tục
nước ngoài biểu thị ý đồ tranh giành hay xâm khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai
chiếm đảo nào đó trong hai quần đảo. quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 16/6/1956, khi Cộng hòa nhân dân Tháng 9/1975, Đoàn đại biểu Chính phủ
Trung Hoa, Đài Loan và Cộng hòa Phi-líp-pin Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
đều nhận quần đảo Trường Sa là của họ, Bộ Nam tại Hội nghị khí tượng ở Colombo tuyên
trưởng Ngoại giao chính quyền Sài Gòn tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam và yêu
bố một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt cầu Tổ chức khí tượng thế giới tiếp tục ghi tên
Nam đối với quần đảo đó. trạm khí tượng Hoàng Sa của Việt Nam (trước
Ngày 22/02/1959, Chính quyền Sài Gòn bắt đây đã được đăng ký trong hệ thống các trạm
giữ một thời gian 82 người dân Cộng hòa nhân của OMM dưới biểu số 48.860) trong danh mục
dân Trung Hoa đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, trạm khí tượng của Tổ chức khí tượng thế giới.
Duy Mộng và Quang Hòa trong quần đảo Sau khi nước Việt Nam thống nhất năm
Hoàng Sa. 1976, Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Ngày 20/4/1971, Chính quyền Sài Gòn Việt Nam đã nhiều lần khẳng định chủ quyền
khẳng định một lần nữa quần đảo Trường Sa của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và
thuộc lãnh thổ Việt Nam, đáp lại đòi hỏi về chủ Trường Sa trong các công hàm gửi các bên có
quyền của Ma-lay-xi-a đối với một số đảo trong liên quan, trong cuộc đàm phán cấp Thứ
quần đảo đó. Trưởng Ngoại giao ở Bắc Kinh bắt đầu tháng
Nhân lời tuyên bố của Tổng thống Phi-líp- 10/1977, trong các tuyên bố của Bộ Ngoại giao,
pin về quần đảo Trường Sa, trong cuộc họp báo trong các Hội nghị của tổ chức khí tượng thế
ngày 10/7/1971, Ngoại trưởng chính quyền Sài giới Giơ ne vơ (tháng 6-1980), của Đại hội địa
Gòn ngày 13/7/1971 khẳng định một lần nữa chất thế giới ở Paris (tháng 7 năm 1980), v.v…
chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo đó. Mặc dù quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung
Tháng 1 năm 1974, khi Cộng hòa Nhân dân Quốc chiếm đóng trái phép hoàn toàn từ năm
Trung Hoa dùng lực lượng quân sự xâm chiếm
162 N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168
1974, nhưng Việt Nam vẫn không ngừng các xuất bản một bản đồ vẽ ranh giới lãnh hải của
hoạt động nhằm xác định chủ quyền của mình Ma-lay-xi-a lấn vào vùng biển phía Nam của
đối với Hoàng Sa. quần đảo Trường Sa trong đó có đảo An Bang,
Từ năm 1976, Nhà nước Việt Nam thống Thuyền Chài do quân đội nhân dân Việt Nam
nhất dưới tên gọi mới Cộng hoà xã hội chủ đang đóng giữ và các đảo Công Đo do Phi-líp-
nghĩa Việt Nam, với tư cách kế thừa quyền sở pin đang chiếm giữ trái phép (khu vực này rộng
hữu các quần đảo từ các chính quyền trước, có khoảng 4,4 km². Ngày 08/5/1980, nhân chuyến
trách nhiệm duy trì việc bảo vệ chủ quyền trên thăm và hội đàm với Ma-lay-xi-a, Bộ trưởng
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch đã
khẳng định đảo An Bang là của Việt Nam.
Ngày 12/5/1977, Chính phủ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Tuyên bố về lãnh Tháng 7/1980, quân đội Phi-líp-pin mở
hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và cuộc hành quân Polaris-I chiếm đóng thêm một
thềm lục địa của Việt Nam đã khẳng định rõ hai đảo ở phía Nam là đảo Công Đo (Commodore
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Reef) mà họ gọi là đảo Rizal nằm cách hòn đảo
Việt Nam. gần nhất mà họ chiếm đóng trái phép trước đây
150 hải lý. Ngày 26/7 và 11/8/1980, Chính phủ
Tháng 10/1978, trong chuyến thăm chính
Việt Nam gửi Công hàm phản đối hành động
thức Ma-lay-xi-a, Thủ tướng Phạm Đồng đã
nói trên của Phi-líp-pin.
khẳng định: “Quần đảo Trường Sa, trong đó có
đảo An Bang là thuộc chủ quyền của Việt Nam; Ngày 29/6/1981, Ủy Ban nhân dân đặc khu
nếu có tranh chấp và hiểu lầm nào đó liên quan Vũng Tàu - Côn Đảo đã ra Quyết định số 359-
giữa hai nước sẽ được giải quyết thông qua QĐ/UB - ĐK xử lý vụ 15 thủy thủ quốc tịch
thương lượng”. Đài Loan xâm phạm trái phép vùng quần đảo
Trường Sa của Việt Nam.
Ngày 20/9/1978, trong chuyến viếng thăm
chính thức Cộng hòa Phi-líp-pin, Thủ tướng Tháng 12/1981, Bộ Ngoại giao Việt Nam
Phạm Văn Đồng đã khẳng định chủ quyền của tiếp tục công bố Sách Trắng Quần đảo Hoàng
Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và thỏa Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam. Các tài
thuận với Tổng thống Ferdinand Macos rằng liệu này đã chứng minh một cách rõ ràng chủ
hai nước sẽ giải quyết mọi bất đồng thông qua quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo trên
thương lượng. tất cả các khía cạnh: lịch sử, pháp lý và thực
tiễn quốc tế.
Ngày 15/3/1979, Bộ Ngoại giao nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố Bị Ngày 21/2/1982, người phát ngôn nước
vong lục về vấn đề biên giới Việt Nam - Trung Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên
Quốc, trong đó tố cáo việc Trung Quốc dùng vũ bố phản đối chính quyền Đài Loan tự ý đặt
lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dưới quyền
Nam ngày vào tháng 1/1974. tài phán của mình.
Ngày 28/9/1979 công bố Sách Trắng (Bạch Ngày 9/12/1982, xuất phát từ nhu cầu quản
Thư) giới thiệu nhiều tài liệu chứng minh chủ lý hành chính cũng như để xác lập chủ quyền
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo đối với Hoàng Sa, Hội đồng Bộ trưởng nước
Hoàng Sa và Trường Sa. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Quyết
định số 193-HĐBT thành lập huyện Trường Sa,
Ngày 28/9/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam
bao gồm toàn bộ quần đảo Trường Sa trực
phản đối việc Phi-líp-pin sáp nhập hầu hết quần
thuộc tỉnh Đồng Nai,(44) (nay thuộc tỉnh Khánh
đảo Trường Sa vào lãnh thổ Phi-líp-pin.
Ngày 29/4/1980, Bộ Ngoại giao Việt Nam ______
gửi Công hàm cho Ma-lay-xi-a phản đối về việc (44)
Đến ngày 28/12/1982, huyện Trường Sa được chuyển
sang tỉnh Phú Khánh. Sau khi chia tách tỉnh Phú Khánh
N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168 163
Hòa). Cùng thời điểm trên, Hội đồng Bộ trưởng trước Tuyên bố ngày 15/01/1987 của Bộ Ngoại
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra giao Trung Quốc về chủ quyền của Trung Quốc
Quyết định số 194 - HĐBT thành lập huyện đảo đối với quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa).
Hoàng Sa, bao gồm các đảo của quần đảo Hoàng Cùng ngày, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt
Sa, trực thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng (45). Nam đã Tuyên bố lên án Trung Quốc đã liên tiếp
Ngày 21/02/1982, người phát ngôn Bộ đưa tàu biển đến khảo sát, tiến hành các hoạt động
Ngoại giao Việt Nam tuyên bố phản đối chính bất hợp pháp ở quần đảo Trường Sa, đặc biệt là
quyền Đài Loan tự ý đặt quần đảo Hoàng Sa và Trung Quốc đã tổ chức tập trận ở quần đảo
Trường Sa dưới quyền tài phán của mình. Trường Sa từ ngày 16/5 đến ngày 06 /6 /1987.
Ngày 06/5/1983, người phát ngôn Bộ Ngoại Ngày 20/02/1988, người phát ngôn Bộ
giao Việt Nam ra Tuyên bố phản đối việc ngày Ngoại giao Việt Nam đã Tuyên bố tố cáo nhiều
25/4/1983 Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đặt tên tàu chiến Trung Quốc vi phạm lãnh hải Việt
Trung Quốc cho các đảo, đá, bãi cạn thuộc quần Nam ở ngoài khơi của quần đảo Trường Sa của
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Việt Nam, lên án các hoạt động quân sự của
Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa là đe dọa
Ngày 15/4/1984, Bộ Ngoại giao Việt Nam
nền an ninh của Việt Nam và của các nước láng
phản đối Ma-lay-xi-a chiếm đóng trái phép đảo
giềng trong khu vực.
Hoa Lau trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ
quyền của Việt Nam. Ngày 14/3/1988, trước việc Trung Quốc
ngang ngược dùng vũ lực tấn công và xâm chiếm
Ngày 02/6/1984, Bộ Ngoại giao Việt Nam
Đá Chữ Thập và Đá Gaven cùng một số đá chìm
ra Tuyên bố lên án Trung Quốc sáp nhập hai
và bãi ngầm trong quần đảo Trường Sa của Việt
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
Nam, gây hư hại nhiều tàu thuyền, bắn chết và
vào địa phận tỉnh Hải Nam, Trung Quốc.
làm mất tích gần 100 công dân Việt Nam, Bộ
Tháng 12/1986, Ma-lay-xi-a lại tổ chức một Ngoại giao Việt Nam ra Tuyên bố lên án Trung
cuộc hành quân ra chiếm đóng trái phép Đá Kỳ Quốc gây xung đột vũ trang và chiếm đoạt một số
Vân (Mariveles Reef) và Đá Kiệu Ngựa bãi đá ngầm tại Trường Sa của Việt Nam, xâm
(Ardasier Reef) mà họ gọi là Terumbu phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam và vi
Mantanani và Terumbu Ubi ở phía Bắc Đá Hoa phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế.
Lau. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phản đối hành
Năm 1992, Trung Quốc lại dùng vũ lực
động này của Ma-lay-xi-a.
xâm chiếm Bãi Vạn An và một số đảo nhỏ trên
Ngày 16/4/1987, người phát ngôn Bộ Ngoại thềm lục địa của Việt Nam, phía đông các Bãi
giao Việt Nam khẳng định chủ quyền Việt Nam Thanh Long và Tư Chính.
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Những vụ xâm chiếm này rõ ràng không
những đã xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của
(30/6/1989), huyện Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Việt Nam mà còn vi phạm nghiêm trọng các
Theo Nghị định số 65/2007/NĐ-CP của Chính phủ Việt nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại,
Nam được ban hành vào tháng 4 năm 2007, huyện Trường như: nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia,
Sa (thuộc tỉnh Khánh Hòa) có 3 đơn vị hành chính trực nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ
thuộc gồm thị trấn Trường Sa và các xã Song Tử Tây,
Sinh Tồn. Thị trấn Trường Sa được thành lập trên cơ sở lực trong quan hệ quốc tế, nguyên tắc hòa bình
đảo Trường Sa lớn và các đảo, đá, bãi phụ cận. Xã Song giải quyết các tranh chấp quốc tế, nguyên tắc
Tử Tây được thành lập trên cơ sở đảo Song Tử Tây và các các quốc gia phải có nghĩa vụ hợp tác với nhau,
đảo, đá, bãi phụ cận. Xã Sinh Tồn được thành lập trên cơ v.v… Những nguyên tắc này đã được ghi nhận
sở đảo Sinh Tồn và các đảo, đá, bãi phụ cận.
(45)
Ngày 6/11/1996, Quôc hội nước CHXHCN Việt Nam trong Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên bố
(khóa 10) ra Nghị quyết tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ngày 24-10-1970 của Liên hợp quốc, Công ước
thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Do đó, Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và trong
huyện đảo Hoàng Sa nay thuộc thành phố Đà Nẵng.
164 N.B. Diến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 151‐168
hàng loạt điều ước quốc tế đa phương và song Sa để quản lý các đảo gồm cả Hoàng Sa và
phương, khu vực và toàn cầu. Trường Sa của Việt Nam. Trước diễn biến này,
Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên
thông qua Nghị quyết phê chuẩn Công ước Luật bố: Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và
biển năm 1982 của Liên hợp quốc. Việt Nam là cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với
nước thứ 63 phê chuẩn Công ước này thông qua hai quần đảo nói trên.
nghị quyết của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Ngày 12/3/2009, Bộ Ngoại giao Việt Nam
chủ nghĩa Việt Nam ngày 23/6/1994 và nộp lưu ra Tuyên bố phản đối việc Trung Quốc cho
chiểu văn bản phê chuẩn vào ngày 25/7/1994. phép Công ty Trách nhiệm hữu hạn du lịch
Trước và sau khi phê chuẩn Công ước 1982, quốc tế Châu Giang, Hải Nam của nước này mở
phần lớn các quy định của Công ước Luật biển tour du lịch ra đảo Phú Lâm thuộc quần đảo
năm 1982 đã được Việt Nam vận dụng làm cơ Hoàng Sa của Việt Nam. Theo người phát ngôn
sở cho việc ban hành và thực thi các văn bản Bộ Ngoại giao, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng
phá luật nhằm điều chỉnh các hoạt động trên lịch sử và pháp lý để khẳng định chủ quyền của
biển của mình. Quốc hội nhấn mạnh: cần phân mình đối với hai quần đảo này và nhấn mạnh:
biệt vấn đề giải quyết tranh chấp về quần đảo "Việc này đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền
Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa với vấn đề bảo lãnh thổ của Việt Nam, không có lợi cho tiến
vệ các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ trình đàm phán tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của dài cho vấn đề trên biển giữa hai bên".
Việt Nam căn cứ vào những nguyên tắc và Ngày 08/5/2009, phái đoàn thường trực
những tiêu chuẩn của Công ước của Liên hợp Việt Nam tại Liên hợp quốc đã có Công hàm số
quốc về Luật biển năm 1982. 86/HC-2009 gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc
Ngày 15/5/1996, Đại hội đại biểu nhân dân bác bỏ Công hàm ngày 7/5/2009 và yêu sách
toàn quốc Trung Quốc phê chuẩn Công ước đường lưỡi bò của Trung Quốc tại Biển Đông.
Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc. Cùng ngày, người phát ngôn Bộ Ngoại giao
Ngày 16/01/2005, Bộ Ngoại giao Việt Nam Việt Nam cũng đã trả lời phỏng vấn khẳng định
đã yêu cầu phía Trung Quốc có các biện pháp chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
nhằm ngăn chặn và chấm dứt ngay những hành Hoàng Sa, Trường Sa và coi đường yêu sách 09
động sai trái tương tự, cho điều tra và xử lý đoạn của Trung Quốc thể hiện trên sơ đồ là
nghiêm những kẻ đã bắn chết người về sự kiện “không có giá trị vì không có cơ sở pháp lý,
ngày 08 /01/2005 tàu nổ súng vào tàu đánh cá lịch sử và thực tiễn”.
Việt Nam làm 09 ngư dân tỉnh Thanh Hóa bị Ngày 16/5/2009, phản ứng của Việt Nam
thương. trước việc Lệnh cấm đánh bắt cá của Trung
Ngày 24/11/2007, Việt Nam cũng phản đối Quốc từ ngày 16/5 đến ngày 1/8/2009 tại một
việc Trung Quốc tiến hành tập trận trong vùng số vùng biển trong đó có những khu vực thuộc
quần đảo Hoàng Sa từ ngày 16 đến 23/11/2007 chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông,
và coi đây là hành động vi phạm chủ quyền. Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho tuyên bố: "Việt Nam khẳng định chủ quyền của
rằng, việc này không phù hợp với tinh thần mình đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng
cuộc gặp mới đây giữa hai thủ tướng Việt Nam Sa. Mọi hành động của nước ngoài đối với hai
và Trung Quốc bên lề Hội nghị cấp cao quần đảo này cũng như trong vùng đặc quyền
ASEAN lần thứ 13 tại Xing-ga-po. kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam mà không
có sự đồng ý của Việt Nam đều là vi phạm chủ
Ngày 03/12/2007, Việt Nam đã lên tiếng
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của
cực lực phản đối hành vi của Quốc Vụ viện
Việt Nam đối với các khu vực này”.
Trung Quốc phê chuẩn việc lập thành phố Tam