Trí quang tự truyện

  • 40 trang
  • file: .pdf

đang tải dữ liệu....

Tài liệu bị giới hạn, để xem hết nội dung vui lòng tải về máy tính.

Tải xuống - 40 trang

Nội dung text: Trí quang tự truyện

Trí Quang Tự Truyện
1/1
Tôi người Quảng bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền trân công chúa mới đáng là
thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân
tiếp quản Quảng bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận lý là con trưởng, kế đó, Phương
xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.
Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
Trước đó, cả làng định cư bao giờ không rõ, chỉ biết vì chậm chân nên ngoài số
ruộng đất không đáng kể, làng tôi phải làm muối, vì con sông của làng là nhánh sông
lớn Nhật lệ, nước mặn. Do đó mà có tên Diêm điền, cấp phường chứ không phải xã,
thuộc tổng Long đại, phủ Quảng ninh, 1 trong 5 phủ huyện của Quảng bình. Vị trí
gần tỉnh lỵ, nhưng làng không có truyền thống học chữ Tây. Vẫn học Nho, nhưng
không có tiếng là làng Nho học hay khoa bảng gì.
Một bí mật mà nay nên nói ra. Làng tôi có liên hệ khá chặt chẽ với phong trào
Văn thân của chí sĩ Phan đình Phùng. vùng núi phía tây của làng có 2 quân thứ của
phong trào. Bác họ tôi là một chỉ huy cấp trung, ông ngoại tôi là một đội viên, của
một trong 2 quân thứ. Cha tôi là “người của vua Minh”, tiếng gọi kín vua Hàm nghi.
Năm tôi 14 tuổi, cha tôi bảo đi theo ra thăm đám ruộng cạnh giếng Nĩ, vùng Ải dài,
nghiêm trọng kể cho tôi, và bảo, “phải biết và nhớ lấy”. Tôi hỏi, làng mình có ai là
“người của vua Minh” nữa không, cha tôi đắn đo rồi bảo, có, làng mình và các làng
chung quanh, nhất là dưới tỉnh, có cả. Nhưng, này, “quốc tặc” là gì, con biết không,
tôi thưa, dạ biết. Cha tôi bảo, biết, biết nó là gì thì không được sợ, cũng không được
khinh suất.
½
Nhà tôi có 6 anh em trai. Anh đầu là Phạm Huệ, mất ở Lào. Anh hai là Phạm
Cần, 102 tuổi, mất năm kia. Bốn anh em còn lại, sinh cùng một mẹ, là Phạm Minh,
90 tuổi; tôi Phạm Quang, 89 tuổi; em, Phạm Chánh, tử trận năm 1947, trong tuần lễ
thứ 2 chống Pháp tại tỉnh nhà; em út là Phạm Đại, mất chưa kịp gặp tôi, sau 1975.
Tôi có bác ruột, Phạm Phương, tử trận tại bến Bồ đề, cuối cầu gỗ Đông ba, Huế,
trong trận chiến quân ta tấn công tòa Khâm sứ Pháp, ở đây. Mẹ tôi rất thích nghe bài
sám Lương hoàng, người Đức phổ, cùng làng với bổn sư, và tổ sư của tôi (là người
Đắc ân, trú trì quốc tự Linh mụ. Cả cha mẹ cùng qui y ngài nầy, làm Phật tử tại gia
(đồng sư với bổn sư của tôi). Cha tôi tâm đắc nhất nên tự phiên âm chữ Nôm bản
“Truyện Phật Thích ca” của Từ bi âm, thích thú đọc lớn, ngâm nga hoài, nhất là
những lúc một mình, và khi mất đã tự đặt sách ấy trên ngực, 2 tay giữ lấy. Nhánh ba
họ Phạm làng Diêm điền là gia tộc của tôi, theo Phật từ lâu, nhưng thật sự là ông nội
và cha tôi. Cha tôi khi bán thế xuất gia thì làm đệ tử ngài Đắc quang (Tăng cang
Linh mụ) em ruột ngài Đắc ân. Danh hiệu long vị là “Người dòng phái đại tổ sư
Nguyên thiều, pháp danh Hồng nhật, pháp tự Tâm nguyên, đắc pháp với pháp húy
Huyền đàm đại sư.”
1/3
Năm lên 7, mẹ tôi chuẩn bị đâu vào đó, rồi nghiêm mặt đến nỗi anh Minh và
tôi không dám hó hé, nhưng tôi có cảm giác là lạ, và mẹ ra lịnh “sáng mai đi học”!
Khai tâm cho anh em tôi là tiên chỉ của làng. Mậu thực phu từ. Mẹ tôi soát vở học
luôn, bằng cách đếm trang vở, nhìn chữ son đồ nét mực đen, rồi bảo tôi trước, “học
gì đọc cho mẹ nghe”! Nghe xong, mẹ im lặng, 2 năm sau, đem anh em tôi lên làng
Thuận lý, cách nhà 6 cây số, học với bác họ, bác ấm Lộc, cha làm Kinh lược ở đâu
ngoài Bắc. Bác hơi dữ. Nhưng lo cháu bị mẹ đánh, bác bảo viết lại bài làm, khuyên
vào nhiều vòng đỏ. Mẹ cũng đoán ra, xin bác đừng thương lắm kẻo cháu hư thân.
Mẹ về. Bác bảo, họ Phạm ta ở làng nào cũng kém lắm. Bác gọi tên tục của tôi mà
bảo. Do, cháu gắng lên nữa, cho mẹ vui, bác vui. Tất cả vốn liếng chữ Nho, chữ
quốc ngữ và trọn chương trình Cơ thủy hồi đó, do sở Học chính Đông dương biên
soạn, chúng tôi được học cả. Trừ chữ Tây. Bác Lộc nói với mẹ, cháu tạm ngưng
được rồi. Những gì đủ để sống ra trò ở thôn quê, tôi đã dạy cháu. Cô có thể tìm cách
cho cháu học theo chương trình Tây soạn ra, một mớ chữ của nó nữa là đi thi lấy
bằng Cơ thủy, học lên Thành chung... Nhưng cái đó tùy cô, bàn xét cho kỹ. Mẹ tôi
bàn với cậu ruột của tôi. Nhất là xét kỹ coi tôi có đủ sức sống với thôn quê, hay
không. Cậu xét gắt gao, và nói với mẹ, bác ấm Lộc dạy rất tốt. Còn việc học lên nữa
thì phải xét có tiền không, có cần không. Mẹ bàn với cha. Cha tôi bảo để kiểm tra
đã. Và kiểm tra nghiêm ngặt, bằng khá nhiều cách. Nhất là kiểm tra học lực chữ Nho
của tôi. Cha tôi khá vui, nhưng bảo mẹ tôi, con nó mới học một nửa,. Một nửa cần
phải học thêm. Ta phải dạy cho con. Đó là học làm đất: đất vườn, đất nương, đất
ruộng. Đất nào nhà mình cũng có, rất ít, nhưng dạy con biết cuốc, biết cày, biết
trồng, biết trỉa, đổ mồ hôi xuống đất thì đất cho cái ăn, khỏi bị khinh vì đói rách, xin
xỏ, nợ nần. Mất 3 năm tròn, cha mẹ tôi mới hể hả.
2/1
Tổng hội Phật học miền Trung thành lập tại Huế năm 2476, (1932), sau đó các
tỉnh hội thành lập khá nhanh. Quảng bình là một. Tổng hội cử giảng sư ra giảng Phật
pháp cũng khá liên tiếp. Mẹ tôi một hôm đi chợ về, ngay trên cầu Đá, gặp 2 vị giảng
sư từ Phổ minh về tỉnh hội. Phong cách 2 vị gây chú ý đậm cho mẹ tôi. Về, mẹ nói
liền với cha, và anh em chúng tôi được nghe cả. Rằng nhà mình theo Phật lâu đời mà
chưa có ai như 2 thầy ấy. Phải làm sao cho có. Tôi thành mục tiêu, dầu trước đó đã
chọn làm thừa tự ông bà. Thế rồi công nguyên Phật giáo 2482 (1938), quãng 10 giờ
đêm giao thừa, tôi được thay đổi hoàn toàn: đầu cạo sạch tóc, mặc áo nhật bình màu
khói hương. Há hốc ra, nhưng tôi lại khoái chí. Một lát, Tâm, 1 bạn học Nho với tôi,
cũng lù lù đến với bộ cánh như tôi. Lần nầy thì cha tôi ra lịnh, ôn tồn thôi, “2 đứa đi
tu”! Một năm trước đây, anh Minh đã đi tu như vậy. Trời tối và lạnh, ngay sau giờ
giao thừa, tôi với Tâm, đi theo cha tôi, vào chùa Phổ minh, xóm Ải. Rồi việc gì anh
Minh đã được làm cho thì nay đến tôi và Tâm. Xong việc, bổn sư tôi, ngài Hồng
tuyên, xoa đầu 2 đứa, bảo về ăn Tết đi, rằm vào lại.
Ngài Hồng tuyên gốc Đức phổ, làng ngoại tôi. Cháu các ngài Đắc ân (Trú trì
chùa Linh mụ) và ngài Đắc quang (Tăng cang Linh mụ) nổi tiếng với cái danh “Ký
quốc ân” (Thư ký tổ đình Quốc ân). Người cao, thanh, tay quá gối, rất thông minh.
Từng là học đồ cao trọng của ngài Trà am. Tính tự trọng rất cao, cũng rất cao sự biết
người, biết ta. Tiếp nhân đãi vật rất có phong thái cổ kính, lồng trong phong thái ấy
là sự tiêu sái, dễ cảm mến. Sau nầy, khi đã thử thách, bảo tôi “dạy” lại kinh luận đã
học. Ngài học rất nghiêm, ngồi thấp, bảo tôi ngồi cao. Cho đến nay, tôi chưa gặp ai
lý giải và lĩnh hội được như ngài. Thích nhất là Kim cang và Nhiếp luận. Trọng nhất
là Di giáo. Ngài đòi làm bài, và làm nghiêm túc, dĩ nhiên bằng Hoa văn. Bài thật
tuyệt. Học như vậy, suốt mùa an cư 2486 (1942) Và nói, học như vậy ăn rau lang trừ
cơm cũng được. Lại bảo tôi, ông làm thầy giỏi, nhưng tính nóng. Nhược điểm ấy rán
mà bỏ.
3/1
Nay xin kể lại việc học Phật của tôi. Việc nầy vừa là nền móng vừa là trụ cột,
của đời tôi. Sau khi xuất gia, 2482 (1938) 6 năm tiếp theo 2483-2488 (1939-1944)
tôi được vào Phật học viện của Tổng hội Phật học, vốn là sơ đẳng. Viện thành lập
năm 2477 (1933), chủ yếu do hòa thượng Giác tiên (khai sơn chùa Trúc lâm) và bác
sĩ Tâm minh (Lê đình Thám, đệ tử ngài). Ban đầu đặt tại Trúc lâm, kế tại Quan
công, sau mới tại Báo quốc. tôi học tại đây, băng 4 năm của cấp sơ đẳng. Viện
trưởng, Thân giáo sư chính yếu, là hòa thượng Trí độ, nguyên là học đồ của ngài
Thập tháp, sau, gần hết học kỳ, thầy thọ Bồ tát giới với ngài Đắc quang. Về thế học,
cấp sơ đẳng được bổ túc theo chương trìng Cơ thủy, cấp trung đẳng học thêm triết
học. Về Phật học, là chính yếu, thì nay đủ cả 4 cấp: sơ đẳng 6 năm, trung đẳng, cao
đẳng và siêu đẳng, mỗi cấp 2 năm, cọng 12 năm tất cả. Tôi học 2 năm sau của sơ
đẳng. Khi lên cao đẳng thì thu gọn siêu đẳng vào đó. Học xong cuối năm quí mùi
2487 (1943) làm lễ tốt nghiệp ngay đầu năm sau, 2488 (1944). Nói tổng quát, từ sự
thuộc lòng 2 thời công phu đến Đại trí luận và Du già sư địa luận, Viện dạy rất liên
tục và nghiêm cẩn, đào tạo tăng tài hoàn chỉnh. Nhược điểm là học hơi nhiều về Duy
thức học của hệ Giới hiền – Huyền tráng; nhất là thiếu Sử truyện Phật giáo, mà trong
đó, có bậc hoằng Pháp và hộ Pháp, rất cần cho sự nung nấu hạnh nguyện của học
tăng. Trong thời gian gần xong học kỳ, tôi “bị” viết bản thảo vài ba dịch phẩm và tác
phẩm của Thân giáo sư, lại phải “tập dạy” nhiều môn cho các lớp sơ đẳng và trung
đẳng mà viện mới mở. Mấy việc nầy giúp tôi không ít, có số điểm cao nhất khi thi
tốt nghiệp, lại giúp tôi, sau đó, dịch và viết kinh sách cho đến nay.
4/1
Bấy giờ là năm ất dậu, 2489 (1945). Nói theo dương lịch thì tháng 8 năm đó
CMT8, nói theo âm lịch thì tháng 10 năm đó cha tôi mất. Cha tôi không lú lẫn gì
nhưng trước đó vài ba năm không nói không hỏi gì việc đời nữa, chỉ một mình kể
Truyện Phật gần như thuộc lòng.
Nói trở lại, 1944, 2 lớp sơ đẳng và trung đẳng của Phật học viện (mà bây giờ
gọi là Kim sơn) được tạm dời vào Nam, với thân giáo sư là thầy Trí tịnh, quản lý là
thầy Thiện hoa, hộ chủ là Trương hoằng Lâu. Vào đó liền gặp 1945, trường rã luôn.
Thân giáo sư của Phật học viện gốc thì về quê nhà Bình định, với chí nguyện đem
kinh nghiệm giáo thọ chúng tôi mà lập một Phật học viện cho vừa ý hơn. Rồi chưa
đến đâu, ngài ra Huế nghỉ thư giãn ở Kim sơn.
Quãng hè 1946, thầy Tâm chính, cũng là bạn học ở Kim sơn, thay lời các vị lãnh đạo
Phật giáo ở miền Bắc, vào Huế mời được Thân giáo sư Trí độ, lại mời tôi theo ngài,
ra lập Phật học viện tại Quán sứ, tổ chức đầy qui mô và thiện chí. Nhưng đầu tháng
10 âm lịch năm đó, lịnh toàn quốc kháng chiến ban hành. Phật học viện cũng phải
tạm xếp lại.
4/2
Tôi về Quảng bình thì cha tôi mất. Trước đó một ngày, đêm 21 tháng 10 âm lịch, tôi
thức khuya trong gian chái hướng tây bắc, đọc lại Du già sư địa luận, thì các anh
Cẩn và Minh lù lù cùng về. Hỏi ngay, Thầy thế nào, tôi bảo, thì cũng như cũ, yếu và
dễ mệt. Tôi thêm, vẫn ăn được bắp rang ngào mật ong. Răng cha tôi tốt nổi tiếng.
Chúng tôi hạ giọng, nói chỉ đủ nghe. Thế mà trong gian nhà thứ 5 cha tôi vẫn nghe
được, hỏi, mấy đứa về đó, phải không? Tôi dạ. Cha tôi nói, để thầy nghỉ, nói gì thì
sáng mai rồi nói. Mỗi anh môt gói đồ khá lớn. Dỡ ra thì gói nào cũng là đồ điếu
tang. Tôi hỏi, biết người nào cũng thấy tự nhiên phải về vì nghĩ cha đang lâm nguy.
Rồi anh Cẩn ở Lào thì đệ tử, anh Minh ở Huế thì người cùng cơ quan, ai cũng sắp đồ
phúng điếu như vậy. Trên chuyến tàu suốt, anh Minh ở Huế ra dừng ở Đông hà, thì
tại đây anh Cần lên tàu ấy. Nhưng xuống Thuận lý mới gặp nhau. Sáng sớm hôm
sau, 22 tháng 10 âm lịch, cha tôi bảo chú Đại nấu nước lá chanh lá bưởi cho nhiều
một chút, tắm kỹ cho cha tôi. Mẹ tôi, và chị Thuyết, chị con dì của tôi, làm bánh lá
gạo hom cho cha tôi ăn. Khi chú Đại đỡ vào thì cha tôi thả chân xuống nền nhà. Sau
nầy mới biết đó là hạ thổ. Cha tôi bảo đóng cửa cả 5 gian nhà để ngủ bù mất ngủ hồi
khuya. Rồi trừ Đại ở nhà canh cho cha ngủ, 4 anh em, kể cả chú Chánh, ai cũng
xuống tỉnh. Từ cổng Bình quan, tôi rẽ qua phải đến chùa Phật học, anh Minh rẽ qua
trái đến cơ quan của anh. Anh Cần xuống thẳng bến sông Nhật lệ thăm đò nhà vợ.
Còn Chánh, anh chàng đi tìm chỉ huy của mình. Quãng 4 giờ chiều, không ai hẹn ai
mà cũng gặp nhau, thì Đại ôm ngực chạy xuống, hét lớn, các anh về gấp mà coi,
Thầy lạ lắm, nằm thẳng cẳng ra rồi! Cả nhà bấy giờ nhìn kỹ. Cha tôi mang tất trắng,
mang y hậu chỉnh tề, đầu đội mão quan âm, nằm ngửa ngay thẳng và gọn gàng, 3 tay
để trên ngực, ấn cuốn Truyện Phạt Thích ca. Cha tôi đưa tay là lấy đúng cả, từng cái
một. Tôi để ý thấy thiếu cái kính, tức khắc hiểu ra, cha tôi không cầm kính vì sợ
kính không phân hủy hay xương. Đến chết mà kỹ tính vẫn y nguyên! Anh Cần lên
giường, bắt cánh tay rồi bàn tay, từ từ kéo rồi buông ra, thì từ từ tự thu lại như cũ.
Anh lấy sợi chỉ rất nhỏ, cầm để nơi mũi cha tôi, chỉ không một chút lay động. Mắt
cha tôi khép kín, nhưng thoải mái, miệng không mở ra hay xiết lại vì ngột thở hay
nén đau. Toàn bộ sắc mặt bình thường, rất bình thường. Tìm cách khám kỹ hậu môn
và hạ bộ thì đại tiện tiểu tiện không tiết gì ra cả, cũng không hôi hám. Anh Cần, nhất
là Đại, làm rất kỹ việc nầy. Xong, anh Cần hỏi mẹ tôi, Mệ tính gì không, mẹ bảo, tùy
ý các con. Khi kéo anh Cần ra, tôi hỏi, Thầy mất ngày giờ xấu hay tốt? Anh tính đi
tính lại rồi nói xấu, phải đổi lấy ngày mai, 23 tháng 10. Tôi ngac nhiên, 23 xấu mà.
Anh nói, xấu cho việc khác, không xấu cho cái chết. Tôi hỏi, Thầy dạy kỹ và anh
nhớ kỹ không, anh bảo yên tâm đi, tôi dặn kỹ, ngoài anh với tôi, không được nói gì
với ai về việc nầy. Anh nói, tôi cũng định dặn chú như vậy. Rồi anh coi luôn ngày
giờ nhập liệm, động quan, an táng. Ngớt mưa, bác sĩ Du lên coi kỹ, xác nhận Ôông
đi lâu rồi.
Cả nhà ngồi xuống nền nhà, chung quanh giường, tôi lên tiếng đầu tiên, “tuyệt đối
không khóc”. Không được khóc lớn, không khóc thầm, không khóc ấm ức. Ai không
nhịn được thì ra ngoài mới khóc. Mẹ tôi giao chìa khóa cho tôi. Tôi thành quản gia
lúc ấy. Tôi nói với anh Minh, vào chùa trình cho bổn sư hay. Ngài nói, thầy biết rồi,
đang chờ ngớt mưa thì ra liền. Anh Minh đi, có Chánh làm vệ sĩ mà vẫn còn sợ ma!
Thầy mang tơi mà ra. Cả nhà quì lạy, và trình bạch ngày giờ các lễ quan trọng. Thầy
niệm Phật, rồi cùng các sư huynh đi theo, trì tụng liên tiếp 3 biến kinh Di đà, lại
xướng long vị cha tôi mà lạy. Thầy để nguyên y hậu, vào thăm cha tôi. Thầy niệm
Phật lớn tiếng. Vừa niệm vừa đưa tay để trên trán cha tôi, rồi dời tay để trên cuốn
Truyện Phật, nói như nói Pháp ngữ, rằng chỉ một cuốn sách mà làm cho cha tôi chết
rất tự tại, đúng là “hỏa diệm hóa hồng liên”! Thầy xá sâu 3 cái, ra về, dáng vẻ hoan
hỉ.
Với sự giúp đỡ của chú Đông, em con cô, tôi lo đủ hết các thủ tục và tục lệ. Lúc
nhập liệm, trước khi đậy nắp quan, trưởng họ của tôi hô lớn 3 lần, “Cả nhà ra nhìn
Ôông lần chót.”! Lại hô, “ai muốn Ôông mang theo cái gì thì đem ra bỏ vào.”! Nghe
thế, tôi chạy vào mở rương kinh của tôi, thì thấy ngay cuốn Kim cang, nhỏ và gọn,
vốn tôi rất quí, chạy ra đặt trên cuốn Truyện Phật. Nắp hòm đậy lại. Một mình bổn
sư tôi đứng trên đầu cha tôi. Trưởng họ xua ra hết. Thợ làm việc. Tiếng nện nắp hòm
e dè, nhưng vẫn khá mạnh và lớn. Đột nhiên tôi chấn động cả người, vụt chạy vào
buồng, khóc không gào thét, nhưng dữ dội. Tôi đứng úp mặt vào ván gỗ, khóc không
lấy hơi được. Bổn sư tôi vào, đỡ nhẹ tôi đứng thẳng. Cứ như thế, Thầy đứng với tôi
niệm Phật rất nhẹ.
5/1
Những năm 1943 – 46 thế sự quốc gia và quốc tế đại động. Tôi về xứ, sống với bổn
sư, được mẹ cho ăn, ban ngày ở trong cái nhà như chòi tranh, nhưng rất sạch của anh
con bác, tiếp giáp khuôn viên nhà tôi. Tôi biên tập bộ Phật học cấp sơ đẳng, bản thảo
chép tay, lên đến 9 cuốn vở 100tr khổ lớn. Châm chước rất nhiều theo kinh nghiệm
đã học và giảng dạy, cốt sao cho Hoa Việt cân đối; giáo lý nghi lễ đồng đẳng; Sử
liệu Phật giáo đủ cần; truyện tích cổ đức cũng vậy. Chỉ thiếu lấy nốt nhạc các điệu
tán chính: ngũ ngôn như bài Kiến văn, thất ngôn như bài đại từ, trường ngôn như bài
Dương chi. Sách soạn theo thể thức giáo khoa. Thì giờ mất 1 năm, 2488 (1944). Bấy
giờ chưa có photocopy, nên gói kỹ, bảo chú Kỳ, đệ tử đầu tiên, người Hà tĩnh, đem
về cất ở đó. Sau đó biệt tích luôn, cả người và sách. Cho đến nay, tôi vẫn tiếc khôn
nguôi.
5/2
Dầu chưa phải lúc, ở đây vẫn nên nói rõ về sự biên dịch kinh sách Phật giáo của tôi.
Vì điều nầy mới đích thực là thị hiếu và chí hướng bình sinh của đời tôi, là mong
ước của mẹ tôi. Nên, dầu cơ hội có chùa lớn và đệ tử nhiều, tôi có không ít, nhưng
tôi khước từ không đắn đo. Chỉ tạm trú hết Từ đàm thì Ấn quang, thì Già lam, ở đâu,
đầu óc tôi chỉ nghĩ đến, ngay trong lúc ăn, phải dịch chữ nầy, câu kia, đoạn nọ, sao
cho đúng ý và nghe được. Tôi không dạy học, vì không thích bằng sự biên dịch.
Khởi sự hơn một năm trước ngày tốt nghiệp, tôi đã chuẩn bị đầy đủ để biên tập “Từ
điển Phật học” và biên dịch “Đại tạng kinh”. Nhưng công việc lúc đó, công việc góp
sức “Vận động thống nhất Phật giáo VN” khiến tôi xếp cất lại chí nguyện của mình.
Chỉ còn làm lai rai, như đã làm và sẽ còn làm. Tôi rũ bỏ hết, rũ bỏ thật hết, cầu sao
sống được một năm hay năm bảy tháng nữa để sửa chữa và biên dịch mấy đầu sách
rất cần. Bản tự truyện nầy viết mất vài ba tuần, làm tôi không khoái chút nào.
Dưới đây là danh mục đã sửa chữa từ Pháp ảnh lục (mà tôi đã quyết định đình chỉ):
1. Ba ngàn hiệu Phật,
2. Lương hoàng sám,
3. Pháp hoa chính văn,
4. Pháp hoa lược giải,
5. Vạn Phật,
6. Tổng tập giới pháp xuất gia
7. Dược sư,
8. Địa tạng,
9. Thủy sám,
10. Kim cang,
và các tiểu phẩm:
1. Hành pháp kinh di đà,
2. Vu lan báo ân,
3. Tôn kính đức quan âm,
và dự tính đang làm:
1. In lại Pháp cú Nam tông
2. Đang dịch Pháp cú Bắc tông,
3. In lại Nhiếp luận,
4. Chữa và in Khởi tín luận,
5. In lại kinh Ánh sáng hoàng kim
chữa và in các tiểu phẩm:
1. Tập Định lăng nghiêm
2. Dị tông luận
5/3
Nay xin nói kinh nghiệm của tôi vốn tính đem ra áp dụng vào 2 việc: biên dịch Đại
tạng kinh trước, rồi làm cùng lúc hay sau đó về việc biên tập Đại từ điển (để giải
thích từ ngữ trong Đại tạng kinh ấy)
Trước, nói biên dịch Đại tạng kinh. Thì Đại tạng ở đây là nói Hoa văn trước.
Đại tạng ấy không nhiều nếu (1) bỏ những bản trùng dịch, (2) bỏ những bản không
cần dịch (3) biên dịch yếu lược. Nên tham khảo “Quốc dịch đại tạng kinh” của Nhật
trong việc nầy.
Rồi, nói việc làm Từ điển, thì kinh nghiệm cho thấy, đừng làm theo Phật học
đại từ điển, Phật quang từ điển. Phật học từ điển của Vọng nguyệt cũng phải thu xếp
lại chỗ nào cần làm như vậy. nói thí dụ, chữ Kiếp có đại kiếp, trung kiếp và tiểu
kiếp, 4 từ tất cả. Nếu giải thích tất cả vào trong từ Kiếp thì tra mau và dễ hiểu hơn.
Vấn đề ở chỗ làm mục lục cho kỹ một chút. Lại nữa, lối giải thích như Nhất thế kinh
âm nghĩa thì xác hơn, vì có chữ chỗ nầy chỗ khác, đâu phải tất cả đều giống nhau.
Nên kinh xưa thường có âm thích ở cuối kinh, làm như vậy xác hơn.
Biên dịch Đại tạng kinh và biên tập Đại từ điển là hoài bảo của bất cứ ai đã học
Phật. Tôi chỉ trình bày sơ sài về kinh nghiệm, không hy vọng gì làm được hơn. Đó là
nỗi ân hận đã thành thống hận cho đời tôi.
6/1
Đầu tháng 2 - 2491 (1947), Pháp sắp chiếm Quảng bình. Tôi được cho biết như vậy.
Nghĩ chết, nhất là chết giặc, mà không có giới thì không được. Tôi xin bổn sư truyền
giới cho, theo cách gặp lúc đại nạn ở biên địa. Truyền và thọ Sa di giới và Tỷ kheo
giới rồi, tối hôm ấy, vía Xuất gia của Phật, 8-2-2491 (1947), thầy tôi cố ý một mình
truyền Bồ tát giới cho tôi. Lễ xong, thầy đứng càng nghiêm kính, nói, tôi với thầy là
nhân duyên thầy trò trọng đại cho đời tôi. Tôi muốn góp sức làm cho ánh sáng Phật
pháp trải ra khắp nơi. hiện chùa Phổ minh là tôi chọn cho ý nguyện ấy. Nhưng tôi
đã không làm được gì cho thỏa dạ. Tôi nhờ thầy, kỳ vọng ở thầy, rán giúp cho tôi...
Tôi cố cầm nước mắt, phục xuống lạy Thầy. Thầy vẫn còn khóc. Nhìn lên Phật, Phật
độc lộ toàn thân, với cái bát nhang duy nhất. Sau đó, 2499 (1955), khi bờ cõi mất
thống nhất, mẹ tôi, cũng một mình, bảo tôi, “con đi mà trả nghĩa cho Phật”. Đi cho
thẳng, đừng đè bụi đè bờ mà châm vô! Mẹ cắn răng, ngậm nước mắt, giục tôi đi đi.
Tôi đi trong nước mắt, và, cho đến nay, 89 tuổi rồi, vẫn không đủ can đảm về nhìn
mộ của Mẹ.
6/2
Khi còn học ở Phật học viện, tôi tụng kinh rất nhiều. Thường quì luôn trên 2
giờ, theo lối quì của Nhật. Mắt rất rõ. Tiếng cao, trong, dài. Lạy siêng lắm, không
biết mệt là gì. Mỗi lần tụng kinh, lạy ít nhất 108 lạy. Sự lạy nầy chỉ thua bổn sư mà
thôi. Tụng tại chánh điện Báo quốc, không tán, không dùng chuông mõ. Pháp hoa
thường 2 buổi, bất thường là 1 buổi. Hoa nghiêm 80 cuốn, thường là 5 cuốn mỗi lần,
vì kinh đóng hay đựng hộp đều có số ấy. Cỡ như thế, Hoa nghiêm 60 cuốn và 40
cuốn, tôi tụng hết. Đại phương tiện báo phụ mẫu trọng ân kinh tụng 2 lần. Đặc biệt
là Đại bát niết bàn, chỉ tụng 2 lần bản dịch của ngài Đàm mô sấm, sau nầy mới đọc
được bản dịch của cao tăng Pháp hiển. Còn thường tụng là Pháp hoa và Hoa nghiêm
bản 80 cuốn. Dời lên Kim sơn, tôi vẫn được thường tụng. Về Phổ minh thì hay lạy
Vạn Phật với bổn sư. Pháp lực đã độ trì cho tội, rất rõ, trong bao phen suýt mất
mạng.
7/1
Ngoài viêc tụng kinh, tôi phải đọc rất nhiều sách báo Phật giáo, đặc biệt là Hải
triều âm. Sách quốc ngữ cũng đọc, đáng kể là Phật giáo triết học của Phan văn Hùm,
là Tuệ giác đức Phật mà nay quên dịch giả. Tồi tệ nhất là Phật giáo đại quan của
Phạm Quỳnh. Ngoài ra, tôi đọc được không chỉ 1 lần, tiểu phẩm thánh Cam địa, sách
quốc ngữ. Tiểu phẩm chiếm trọn sự ngưỡng mộ của tôi, ảnh hưởng đến tôi không ít.
Tôi lại đọc được, do “nghệ sĩ” Vân đàm cho mượn, một số sách của Thương vụ ấn
quán Tàu dịch và in, đa số là sách đọc chuyền tay của Đông kinh nghĩa thục. Trong
số có 2 bộ đáng kể, là Thế giới sử cương và Cách mạng tháng mười. Bộ sau giúp tôi
hiểu Biện chứng duy vật chính thống. Bộ nầy tôi càng đọc vì tác giả Goóc-ki tỏ ra
không ưa Phật giáo.
Trong những năm 1940 – 1944, tôi nghĩ khá nhiều về thế cuộc hồi đó. Tôi
khẳng định ví trí “tăng sĩ Phật giáo” của tôi. Nhưng tôi suy nghĩ sự đô hộ của
người Pháp. Tôi nhờ anh Minh mượn tài liệu chính thức. Bản tường trình sự cần
thiết thành lập Mặt trận Việt minh của Trường Chinh, nội dung nói rõ quan điểm
“giải phóng dân tộc” làm tôi chú ý. Tôi thừa hiểu giải phóng dân tộc rồi không phải
ngưng ở đó. Lại biết, từ lâu, Pháp làm cỏ các phái chống họ, mà cao điểm là pháp
trường Yên bái, thì còn ai nữa để lựa chọn ngoài VM.
Thế rồi, 4 ngày sau tôi thọ Giới, buổi sáng hôm ấy tôi biết thế nào là giặc đổ
bộ. Cùng mẹ, cùng mọi người, cả trâu bò và chó nữa, chạy bất kể đạn lớn đạn nhỏ
bắn tứ tung bát giác. Nhưng không ai chết cả. Súc vật cũng vậy. Thật kỳ lạ. Con
người chạy theo chúng, không phải chúng làm bận con người. Tất cả, nhắm núi mà
chạy. Mẹ con tôi, làng tôi, mấy nhóm nữa, chạy lên cái nơi không biết, vì sao có cái
tên “Mãi đắng”. Tại đây ai cũng có cái chòi dựng hối hả, tranh chưa cột lạt, cũng có
thực phẩm với vài nhúm khoai lang quá non, với trái bầu quả bí chưa rụng hết núm
khô. Đêm ấy, cùng với chú Đốm, lúc nào cũng là hỷ thần trong nhà mà bây giờ là
cái chòi, mẹ con tôi, và Đốm nữa, nhai sống mươi củ khoai lang non, rồi ngủ vùi.
Hôm sau mẹ dậy rất sớm, Đốm quấn quít. Mẹ ấn đầu chú xuống vế, ngồi như không
nghĩ gì cả. Còn tôi, tôi dịch tiểu luận Phát bồ đề tâm. Đây là lần thứ hai, lần đầu dịch
tại chùa Phúc chỉnh, Ninh bình. Thấy mẹ có vẻ bớt nặng nề, tôi dịch bài Minh của
Cảnh sách mà tôi thuộc lòng. Bài nầy, 1963, tôi dịch lại và chú thích, lúc bị giam tại
Rạch cát, Saigon. Đốm giỡn với mẹ. Mẹ vui vì Đốm, vì tôi.
7/2
Quãng 5 hôm sau, anh H ghé thăm. Thủ tục ngoại giao xong, Mẹ bảo Đốm đi
theo, về làng, cách Mãi đắng 13 cây số. Lần về nầy Đốm không chịu lên nữa. Vài
hôm sau có lệnh giết chó mới biết linh tính chính xác của Đốm. Mẹ lên rất sớm, tôi
thưa...mẹ khoát tay: “đoán biết rồi”. “Do ơi! mạ biết con mạ. Không phản Phật,
không phụ mạ, rứa là đủ. Trên đầu con có Phật, mạ không lo chi cả. Có điều, mạ
thấy đàng còn xa, nước còn mặn lắm. Rán giữ, đừng để bị sốt rét.” Mẹ nhìn xuống,
nói, con đi sớm đi. Tôi đi, không có gan nhìn mẹ.
Chiến khu gần Mãi đắng. Tôi vào, xếp đặt công việc chưa đâu vào đâu thì có
sự thay đổi. Tỉnh dời ra Tuyên hóa, thị xã sát nhập Quảng ninh. Tôi tự đề nghị ở lại
tại đây, cho gần mẹ hơn. Lên huyện, lại tự đề nghị phụ trách quận hội Liên Việt.
Hơn tuần sau, một thanh niên cỡ tuổi tôi, gặp, nói, tôi tên Thế, chỉ huy đại đội tự vệ
chiến đấu, đóng ở chỗ thị xã cũ. Tôi công tác, ghé vào nhà gặp mệ. Mệ gọi bằng con
liền, có vẻ các anh đi cả, mệ thấy bạn con như thấy con, nên thương tôi lắm. Mệ
khỏe. Con Đốm đẹp quá, chó lai, thiếu màu đen nữa là tam thể. Mệ xoa đầu, nói với
nó, anh mới của con đó. Nó lắc mình, ngoắt đuôi, rên ư ử, nhìn tôi, dễ thương quá.
Mệ bảo, nấu khoai ăn đã, con. Tía tím, tía trắng, tía gà, khoai ngủ ngược, khoai lang.
Ăn rồi, mệ cho cả rổ nữa, đem về cơ quan. Thế dễ mến thật. Không to con, hoạt bát,
bảo, sáng mai tôi về sớm, anh nhắn gì với mệ không? Tôi cảm ơn nồng hậu, nhờ
thưa Mẹ khỏe, vui, là đủ.
7/3
Hôm nay là 22 - 10 âm lịch. Tôi nhớ khi Cha mất. Trời âm u. Mưa có lúc đã
lớn. Ngày mai đã là 23 -10; ông tha bà không tha. Tôi tìm khuây khỏa trong công
việc. Chỉ não lòng không tụng được cho Cha một thời kinh. Chiều hôm ấy, Thế lên,
tìm tôi gấp gáp, báo tin Mẹ đau nặng. Thế đã cải trang võng Mẹ xuống bịnh viện
tỉnh. “Anh phải về nuôi Mẹ. Quân kỷ không cho phép Thế liều lĩnh hơn được”. “Tôi
về, còn nguy hiểm hơn nữa.” Thế trầm ngâm, ừ, nhưng cứ về đã. Biết đâu chỉ thấy
một trong các anh thì Mẹ lành liền. Tôi nói, bây giờ gần tối rồi, mai sáng mới sắp
đặt được. Thế tạm biệt tôi, không nói gì. Quãng 8 giờ tối, Thế đến, phấn khởi:
“Xong xuôi rồi, tôi nghỉ với anh luôn, sáng đi càng sớm càng tốt”. Tôi nói, còn kiếm
đò. Thế bảo, có rồi. Tôi nhìn Thế, Thế nhìn tôi. Trong một thoáng, chúng tôi cảm
thấy cùng một Mẹ. Tỉnh trí rồi tôi hỏi, Thế có biết ngày mai là kỵ cha tôi không, Thế
nói, bây giờ thì biết. “Thế thì anh càng về gấp”. Tám giờ sáng, đò cặp bến núi U bò,
sông Long đại. Hai anh em trèo núi, cao và rắc rối. Đây là lần thứ hai tôi trèo. Ba giờ
chiều về đến chỗ Thế đóng quân. Thế vừa sắp đặt, vừa giải thích. Mình phải ra khỏi
dốc Cây dẽ trước khi trời tối hẳn. Chỗ nầy có 2 vọng gác của nó nhắm kỹ. Hễ nghi,
hay thấy lay động là bắn liền. Bắn kiểu làm cỏ. Sớm một chút thì nó thấy, chậm một
chút thì mình hết đi được. Bây giờ Thế đưa anh ra dốc Cây dẽ rồi phải lui. Anh bình
tĩnh, đi một mình. Được không. Được. Không đắn đo nữa. Đường khá thẳng, trên
vài cây số. Cây nhỏ, lúp xúp, không đến vai người, làm cho con người dễ nổi bật
hơn. Tôi tự tin đến kỳ lạ. Quên nói bây giờ tôi mặc áo tràng đà cẩn thận, nghĩ có
chết cũng là tăng sĩ đàng hoàng. Tôi đi bình thản. Quãng hơn ½ giờ thì vào vùng đất
Mỹ cang. Mừng nhưng không nhiều lắm. Băng vùng nầy, tôi vào Cẩm lệ hay Phú
vinh. Ra đường ray xe lửa: chỗ hay bị phục kích. Qua khỏi đây, tôi băng cánh đồng
lớn, vào xóm Ải. Lại băng cánh đồng Ải dài, bước vào giếng Nĩ. Chỗ nầy khá nguy
hiểm. Chúng hay phục kích, lại là bãi tha ma hoàn toàn. Cỡ 900 mét là vào nhà,
nhưng rợn người gần như đoạn đường ra khỏi Cây dẽ. Khi vào, cả nhà rú lên. Mẹ
sững sờ. Tôi chỉ biết nhìn. Khi tỉnh trí, tôi hỏi bịnh Mẹ thế nào? Hết rồi, Mẹ nói, và
mắt cười, dưới đèn sáng. Thế đoán đúng thật. Tôi xin ăn đã. Mẹ nói, “Chừ mà có
Thế với Đốm thì vui biết mấy”. Hỏi Đốm, Mẹ nói, nó thoát kiếp rồi, gối đầu trên vế
mẹ mà đi, không rên rỉ chi cả.
Hơn 1 tuần sau, người trực tiếp, người gởi thư, nói tôi nên ở nhà chăm sóc Mệ.
Tôi xin ghi ở đây ơn Thế, ơn Ty, và tất cả những ai thương cho tình cảnh mẹ con tôi.
7/4
Sau húy nhật Cha, thấy Mẹ khỏe vui, tôi thưa làm lễ “bạt độ” cho Chánh. Chú
tử trận ngày 22 tháng 2 nhuận, năm đinh hợi 2491 (1947) tuần thứ 2 sau giặc đổ bộ.
Năm đó, Mẹ 53 tuổi, đại hạn: mất con là đúng lý số. Nghe nói làm lễ, Mẹ mới buồn
trở nên vui. Tôi lo việc. Nói chuyện với người anh họ, vốn là người Việt gốc thầy
chùa, có học, nhưng nay có gia đình. Anh khá về nghi lễ chính thức và không chính
thức của Phật giáo. Tôi cất học thức, làm lễ nghiêm trang, xúc động. Thậm chí – nói
buồn cười – tôi xếp và đặt vàng bạc nhiều vào bàn thờ Chánh, cảm thấy em đang có
ở đó.
Liên tiếp 10 ngày, tôi trì tụng cho Chánh 3 biến Địa tạng, 3 biến Kim cang, và
1 biến Pháp hoa. Mỗi ngày anh họ tôi đến cúng Ngọ và tiến Linh. Tôi đội sớ điệp
cúng em, thầm trì Vãng sinh cho Chánh. Lễ thức đơn bạc. Cái đói năm ất dậu, nay
vẫn còn múa lưỡi hái tử thần khắp nơi.
Ngày chót, người anh họ bày đồ cầu đồng ra. Tôi hơi cười. “có cần không”,
anh bảo, xưa mần răng thì chừ phải mần rứa. Mẹ rất chịu. Thế là đồng lên, người lên
đồng là chú Đông, em con cô của tôi. Trong gần một tiếng đồng hồ, đồng nói giọng
em Chánh. Hỏi gì cũng nói rất đúng, những điều mà đồng, cũng như Chánh lúc
sống, không ai biết gì về những điều ấy. Tôi hỏi về tương lai, gần và xa, đồng cố ý
tảng lờ, không nói. Đồng nói với mẹ vài ba chuyện nữa, đột nhiên khóc nấc lên. Ai
cũng mủi lòng. Đồng nói với Mẹ, con xin đi, và đứng lên lạy Phật, lạy Mẹ. Không
khí thương cảm rất nặng nề.
8/1
Sau khi cúng Cha và cúng em, tôi muốn sinh hoạt bình thường. Nhưng chỉ bái
sám Lương hoàng cho Mẹ nghe. Rồi chuyên trì Kim cang cho Chánh mà em thích.
Và đọc Hoa nghiêm đại sớ. Nhưng ngày đêm bị đủ cách quấy nhiễu. Còn Mẹ, đã 2
đêm nay không ngủ. Tôi hỏi, Mẹ bảo, “ngồi đó, bàn coi”. Mẹ lo nghĩ lấy ai thừa tự
ông bà đây. Nhưng Mẹ không bàn gì cả. Trưa đó, ăn xong,Mẹ không nghỉ, đi đâu
không nói. Khi về, thiệt nhiều hơn chơi, Mẹ nói xóm mình có cô M ngó được. Cô
nầy, sau đó, cảm cái tình tri kỷ của Mẹ, đã thương Mẹ như mẹ ruột. Nhưng... Mẹ lai
đi, đến một nhà gần Chùa, có 2 người con gái. Về, Mẹ vẫn chưa nói gì. Thưa, Mẹ
mới nói chậm rãi, “giữa một thầy tu mà Mẹ đã mơ ước, với một thầy cúng quê mùa
như ai, mẹ phân vân hết sức”. Thế là đã rõ. Nhưng Thầy đã rõ trước. Thầy ra nhà,
lúc mới xế bóng. Mẹ chào hỏi, Thầy nói, nhẹ nhàng, “Chị ơi, xưa, người ta có con
thừa tướng, dễ hơn có con cao tăng”. Mẹ thưa liền, “Tôi không biết bàn tính với ai.
Định chiều vào Thầy thì Thầy đã ra, và đã có ý kiến. Có thể không có gì phải phân
vân nữa”. Đêm đó, tôi trang trọng thưa Mẹ: “Lấy vợ, làm thầy cúng quá dễ. Nhưng
không dễ, hoàn toàn không dễ, cho mẹ con mình. Con đi tu là lời nguyền của Mẹ,
bây giờ nói khác đi sao được”? Thầy lại ra sớm, Mẹ nói rất bất ngờ, “Phải chi con
tôi vào Huế, ở trong Tổ đình Quốc ân, thì tốt quá”. Xui khiến sao 3 giờ chiều ấy, anh
công an vào nhà tôi. Tôi hỏi, bắt tôi, và bắt đi ngay, phải không? Anh nhỏ nhẹ,
“không phải”. Có mấy hòa thượng và quan cụ nào ở Huế muốn mời thầy vào trong
đó. Nếu thầy đồng ý, sáng mai con vào đón thầy xuống sếp con để bàn việc ấy. Tôi
đồng ý, và thưa cho mẹ hay. Mẹ sắp vào chùa thì Thầy đã ra. Khi chuyện đi Huế
được biết rồi, Thầy nói, những lúc như vậy mới thầy ngài Hộ pháp làm việc như thế
nào.
Phần tôi, trong lòng không thư ra mấy. Đi, để Mẹ thui thủi một mình... Nhưng
chuyện mới xẩy ra mươi lăm hôm trước. Lũ trấn vọng gác sau nhà tôi, đêm khuya đã
nhắm bắn vào chỗ tôi nằm, xuyên qua mái sau. Chúng bắn giỏi. Đạn trúng cây đèn
đồng lớn. Cây đèn đỡ đạn cho tôi. Và đây là một hành động ám sát, trăm phần trăm
chỉ để ám sát một tăng sĩ Phật giáo. Tôi biết nhắc lại chuyện nầy thật không phải lúc.
Nhưng phải nhắc. Để Thầy và Mẹ tôi phải thấy gì nữa kia. Sự đời không đơn sơ chút
nào.
Cũng cần ghi thời điểm bấy giờ: 2492 (1948)
9/1
Quãng 2494 (1950), Liên minh Hữu nghị Phật tử Thế giới thành lập ở Tích lan. Việt
nam có hòa thượng Tố liên tham dự. Khi về, hòa thượng cố gắng lập chi bộ ở nước
nhà. Hòa thượng vào Huế vận động. Một cuộc họp đủ cả các vị lãnh đạo tại đây
được triệu tập khá rộng. Trước khi họp, dành vài mươi phút để hòa thượng Tố liên ra
mắt và thuyết trình về Liên minh Hữu nghị Phật tử Thế giới. Cuộc thuyết trình
không được vui lắm, từ mọi phía. Tôi xin phép trình bày ý kiến. Nên bàn việc thành
lập Tổng hội Phật giáo Việt nam, rồi từ đó mà bàn việc liên hệ Liên minh Hữu nghị
Phật tử Thế giới. Liên hệ chứ không trực thuộc. Thí dụ, Liên minh có thế nào thì
Tổng hội không tự nguyện chung số phận. Ai, nhất là hòa thuợng Tố liên, cũng tán
thành. Và đồng thanh bảo tôi chủ tọa cuộc họp. Họp nửa giờ thì xong, với nghị
quyết sau đây:
1. Nay thành lập Tổng hội Phật giáo Việt nam, tạm hạn cuộc 6 tập đoàn Phật
giáo có đại biểu tham dự và ký tên trong cuộc họp nầy.
2. Cuộc họp nầy bái thỉnh đại lão hòa thượng Tịnh khiết (đương kim pháp chủ
tăng già miền Trung) làm Tổng hội chủ lâm thời. Lại công cử hòa thượng Trí thủ
(đương kim Hội trưởng Phật học miền Trung) làm trưởng ban Đại hội chính thức.
3. Trân trọng tái xác nhận tôn chỉ và mục đích của Phật giáo là phụng sự Phật
phap (bằng giáo hạnh cực tinh thuần) và phục vụ nhân loại (bằng từ bi không vụ
lợi).
4. Đại hội chính thức phải tổ chức một năm sau cuộc họp nầy, vào ngày Phật
đản truyền thống 8/4 tại Từ Đàm, Huế. Chi phí: yêu cầu 2 tập đoàn miền Trung đài
thọ.
5. Đại biểu chính thức: 15 vị cho mỗi miền. Người tham quan: không hạn chế.
Gần giờ giới nghiêm. Tôi xin đình họp để kịp về. Và lo nhiều hơn mừng - dầu
cái tiếng “Thống nhất Phât giáo” đã reo lên.
9/2
Sáng sớm 8/4 2495 (1951), Đại hội Phật giáo Việt nam khai mạc tại Từ đàm,
Huế. Pháp thiều “Phật giáo Việt nam”, lần đầu tiên, được hát lên. Sau 3 ngày làm
việc, 1 Hiến chương cho THPGVN được chấp nhận, 1 nghị quyết tán thành
LMHNPTTG được công bố.
Hiến chương qui định THPGVN đặt trách nhiệm lãnh đạo vào Hội đồng Quản
trị Trung ương (QTTW) gồm 1 Tổng hội chủ (là đại lão hòa thượng Tinh khiết), 1
Phó Tổng hội chủ tăng già (là hòa thượng Trí hải), 1 Phó Tổng hội chủ cư sĩ (là cụ
Lê văn Định), 1 Tổng thư ký (là ông Tráng Đinh). Tiếp theo có nhiều thành viên cho
đủ loại công việc. Một chương trình làm việc 3 năm được chấp nhận, trong đó có
phái người du học để đạt trình độ cao cấp.
Nghị quyết tán thành LMHNPTTG gồm có công nhận cờ “5 màu hào quang
của Phật”; THPGVN là Chi bộ “chỉ là liên lạc đạo tình” mà thôi; công nhận hòa
thượng Tố liên là đại diện bên cạnh Liên minh; yêu cầu giúp đỡ người du học mở
đầu là Tích lan.
Thế rồi, HĐQT thực sự làm việc. Đầu tiên là trình báo Quốc trưởng và Chính
phủ về Hiến chương. Phía Quốc trưởng, 1 văn thư tán thành hoàn toàn theo kiểu
cách ngoại giao. Phía Chính phủ thì Tổng trưởng Nội vụ gửi một văn thư nói phải
đặt THPGVN vào khuôn khổ đạo dụ số 10. Bấy giờ những ai nói “chỉ trình chiếu,
không xin phép” mới thấy hòa thượng Tố liên ảo tưởng. Tiếp theo, Chính phủ lịnh
cho Đại biểu miền Trung, đòi nạp khuôn dấu, hạ bảng hiệu. Ông Tráng Đinh bị bắt.
Cụ Định từ chức. Trong cuộc họp khẩn cấp, với tư cách một thành viên của HĐQT,
tôi tình nguyện giữ khuôn dấu, và tức thì yêu cầu tiếp xúc với Đại biểu. Tôi thưa,
khuôn dấu của THPGVN thì chính ngài Tường vân cũng không có quyền tuân lịnh
mà nạp cho chính phủ - nhất là lịnh ấy phi lý quá đáng. Ngài Tổng hội chủ muốn
nạp thì phải có đại hội quyết định. Tôi yêu cầu được phép triệu tập Đại hội ấy, gồm
6 tập đoàn. Diễn biến đến chỗ phải xin duyệt y Hiến chương, nhưng tôi tận lực phản
kháng buộc THPGVN vào khuôn khổ dụ số 10, yêu cầu phải có ít nhất là “1 sắc luật
riêng”. Tôi không thấy nói gì 4 chữ sau, nhưng Hiến chương được nha Pháp chính
miền Trung mời tôi đến, gọt dũa khá kỹ, “không cho tăng già cư sĩ đứng chung”,
công nhiên bác bỏ ý thức thống nhất. Ông Đổng lý văn phòng Quốc trưởng nhập
cuộc. Điềm đạm, ông nói, thượng tọa cứ nhận đi, miễn người ta trồng cam vào chậu
đã. Rồi, sau đó, thượng tọa trồng cam sành chậu sứ như ý mình thì họ cũng không
hơi đâu mà làm khó. Tôi nghe ra, thiện chí của ông không phải không có, nhưng có
cái gì đó cho thấy mọi sự đã trở thành lạc hậu. Tôi vẫn không dễ dàng, đề nghị chữa
cách hành văn mà thôi, rằng THPGVN gồm có Tăng già, và dưới Tăng già là Cư sĩ.
Ông Giám đốc nha Pháp chính chấp nhận.
Và mấy hôm sau, họ mời tôi xuống tòa Đại biểu nhận Hiến chương đã duyệt y.
Tôi phân vân. Hòa thượng Mật nguyên hay đi với tôi “cho tôi bớt lạnh”, khuyên tôi
nên nhận, ít nhất cũng có cái để mở Đại hội 1956, dời THPGVN vào Saigon, chùa
Xá lợi.
9/3
Năm ngoái, 2595 (1951), khi vào họp Đại hội, hòa thượng Tâm châu có đưa
cho tôi 2 tài liệu bằng hình ảnh. Tài liệu 1 là thư tuyệt mệnh của 1 gia đình nếu tôi
nhớ không lầm là 7 người, đau lòng vì tín ngưỡng của mình bị kỳ thị, và gia đình
mình bị bức tử. Tài liệu 2 là một ngôi chùa mái cổ có mặt nhật bị đập, thay vào là
hình chữ thập. Các vị ni sư bị mặc áo bà xơ. Tình trạng như 2 tài liệu nầy mô tả đã
lắng xuống, sau khi tự viện thượng cờ Phật giáo lên.
Năm nay, 2496 (1952), 2 tập đoàn Phật giáo Bắc được ủy nhiệm tổ chức giáo
hội Tăng già toàn quốc (TGTQ). Tôi ra Hànội trước 1 tuần. Hànội rộn ràng cứ rộn
ràng. Giáo hội tổ chức cứ tổ chức. TGTQ được thành lập, với một vị thượng thủ là
ngài Tuệ tạng, và 1 vị Tổng thư ký là ngài Tố liên.
Đại hội có mục đến dự buổi tiếp tân của Hiệp hội Văn hóa Thăng long. Sau lời
chào mừng của ông Hội trưởng, tôi được bảo thay lời đáp lễ. Tôi thưa, 3 miền tăng
sĩ Phật giáo hội họp nơi ngàn năm văn hiến nầy là muốn nói lên mục đích phục vụ
văn hóa dân tộc. Đó cũng là mục đích chúng tôi đến đây, hôm nay. Dân tộc ta, từ
bao giờ cho tới bây giờ, chống ngoại xâm là chống xâm lược văn hóa và lãnh thổ.
Con dân tổ quốc, khắp trên đất nước, bảo tồn lãnh thổ, chúng ta phải góp sức bảo
tồn văn hóa. Nơi vũ khí chống xâm lược lãnh thổ có sự chống xâm lược văn hóa.
Nơi chúng tôi và quí vị có sự bảo tồn tín ngưỡng dân tộc, tức cũng có sự bảo tồn văn
hóa dân tộc. Cả dân tộc ta đang chung lòng chung sức như thế. Thay lời liệt vị tôn
túc, tôi kính mến cảm ơn thịnh tình của quí vị.
Cỡ 1 tuần sau Đại hội TGTQ, phái đoàn đại biểu Phật giáo Việt nam, trong đó
có tôi, qua Nhật dự Đại hội LHHNPTTG. Chương trình Đại hội nầy có mục đến
thăm nơi quả bom nguyên tử đầu tiên đã nổ và để lại những gì của nó. Tôi bịnh,
không đi, nhưng nghe nói thật kinh hoàng. Đưa Đại hội đến thăm ở đây, rõ ràng,
người Nhật tố cáo, nguyền rủa.
10/1
Bấy giờ là thời điểm 2497 – 2499 (1953 – 1955)
XX
Đây là thời điểm mà tổ quốc phân chia Bắc Nam. Tôi nghĩ, tôi nên đứng ở
cương vị thuần túy Phật giáo, không nên có ý kiến về việc đời quan trọng, chỉ đánh
dấu tâm tư bằng dấu ẩn mà thôi.
11/1
Bấy giờ là thời điểm 2500 (1956), gồm trước và sau đó nữa.
!!
Thời điểm nầy đau đớn nhất cho đời tôi, cho suốt đời tôi. Thời điểm mà ngưòi
Mẹ khốn khổ của tôi bị đấu tố. Tôi không đủ can đảm, nhớ lại cho hết, ghi lại cho
đủ, chỉ đánh vài dấu than mà thôi.
12/1
Suốt 7 năm, 2500 – 2506 (1956 – 1962), tôi hoàn toàn nghỉ việc, mất ngủ đến
nỗi mí mắt không nhắm lại được. Nói chuyện cũ, trước cả năm 2495 (1951), tôi đề
nghị đổi và đã đổi được, trước là Phật học thành Phật giáo, sau Sơn môn thành Giáo
hội. Chữ sau khó mà dễ, chỉ phải tra cứu rất kỹ, và tham khảo các vị chuyên môn nổi
tiếng về Luật, Sử và Triết. Chữ đầu dễ mà lại khó, không khó vì gì mà vì một gã trí
thức mới biết nghĩa 2 chữ Phật học, Phật giáo. Thật ra gã không biết chữ Phật học
của Hội là lấy từ đại nguyện vương của ngài Phổ hiền, “bát giả thường tùy Phật
học”, có nghĩa thường tu học theo Phật. Ấy thế nhưng, một tài liệu công an mà tôi
được mật cho, công an buộc một huynh trưởng khai rằng tôi đổi Phât học ra Phật
giáo là chuẩn bị tranh cử tổng thống.
Tôi vào Nha trang. Với cảm khái lắng đọng, viết 2 cuốn Tuệ năng và La thập.
Qua 2504 (1960) về Huế, không mấy lúc không nghe, từ văn phòng Tổng trị sự,
Phật tử bị hại. Tàn bạo nhất là 27 chứ không phải 16, Phật tử bị thảm sát trong 1
đêm tại Đồng xuân, Tuy hòa. Ngang nhiên nhất là đêm đông, bắt huynh trưởng
Trinh đem ra đồng đánh chết, rồi công nhiên phát thanh tại Kim long, “những kẻ giết
tên Trinh nên lánh mặt đi”. Liên tục và đồng loạt nhất là rào Ấp chiến lược. Chùa
nào trong rào thì hết ra vào hành đạo. Chùa nào bên ngoài thì tự do bị tác xạ. Nhưng
cái nầy mới độc đáo. Phong trào họp luôn, đều đều bình nghị, “ai nghèo thì đi khu
Trù mật, khu Dinh điền”. Nghèo đây là các cấp điều hành Phật giáo địa phương,
“càng giàu là càng nghèo: phải đi”! Đi đến đó bị kỳ thị: chết bỏ!
12/2
Thế nhưng, cờ Pg thì dính gì ở đây mà thành vấn đề? Đúng! cờ Pg không dính
gì ai cả. Tại ai tự tạo ra vấn đề “cờ Pg” mà thành chuyện. Vùng Huế và Quảng trị ai
cũng biết Tổng giám mục Thục ưng làm Hồng y giáo chủ. Tòa Thánh điều tra, thấy
Phật đản thì Quốc lộ Huế - Quảng trị đầy cờ Pg, lớp tư gia 2 bên đường treo trước
cửa, lớp cắm trên xe mà chạy. Kiệu Lavang thì trái lại. Toà Thánh bảo thế là không
thích đáng. Đức Thánh cha nói thế chứ ngài đâu có bảo mà đức Tổng giám mục bắt
tất cả các hộ, đặc biệt là các hộ công chức, phải kê danh sách theo tờ khai gia đình
mà làm con chiên. Và đợi đến Phật đản thì bắt triệt bỏ cờ Pg là xong. Tỉnh trưởng
mà cũng là thị trưởng Huế, vận động chính ông Hội trưởng Tổng hội Pg miền Trung
(mà đương nhiên là tôi) hưởng ứng lịnh ấy, ông từ chối. Ông cố vấn đứng ra điều
giải. Sáng 14/4 âm lịch, ông mời đại diện Giáo hội và Hội đến tư dinh, thưa, xin quí
ngài yên tâm. Tôi đã yêu cầu 2 ông bộ trưởng đây về Saigon gấp, điều chỉnh tức
khắc, đừng để “lịnh bị lạc” quá lắm rồi.
Nhưng cố nói mặc cố. Quãng 2 giờ chiều, chỉ 4 tiếng đồng hồ sau cuộc điều
giải, tất cả tự viện và lễ đài Phật đản, nhất là thành phố Huế, đều cho người chạy đến
Từ đàm báo động, rằng quyền môn bị giật sập, đèn bị đạp, cờ Pg bị triệt. Tôi đóng
cửa, tĩnh tâm, xét kỹ, thấy hết mọi điều giải và hứa hẹn. Hòa thượng Thiện minh đi
đón 2 Đại lão hòa thượng Thuyền tôn và Tường vân. Tôi và các thầy đi bộ xuống tòa
Tỉnh trưởng, vào lúc hơn 4 giờ chiều. Ông Phó tỉnh trưởng ra đón chào chúng tôi, và
mời tôi lên họp trên lầu. Tôi từ chối, thưa rằng, chúng tôi đến đây là để được biết, tại
sao khi sáng hứa gì với chúng tôi mà, ngay từ đó cho đến bây giờ, đi phá lễ đài Phật
đản? Ông vẫn không trả lời, vẫn một lần nữa mời tôi lên họp. Tôi nhìn thấy trời sắp
tối, quần chúng Phật tàn ngập ngút mắt. Tôi đành đến bạch 2 Ôông và các ngài, các
thầy, rồi bước theo ông Phó tỉnh trưởng hướng dẫn. Được mời ngồi, tôi xin đứng,
nói, quí vị thấy quần chúng Phật tử đó: tôi không có thì giờ để ngồi nữa. Xin quí vị,
nếu được, cho chúng tôi biết quyết định của quí vị. Ông tỉnh trưởng nói, và đưa tay
chỉ, đây là ông Phó Tỉnh trưởng nội an, đây là ông Cảnh sát trưởng, đây là ông
Trưởng ty Thông tin. Chúng tôi hy động mọi trách nhiệm sở quan, dùng xe thông tin
và chiêu hồi, đi yêu cầu chỉnh lễ đài Phật đản. Riêng thành phố, còn thông báo cho
các đường có dân cư nữa. Toan hỏi đài phát thanh, nhưng không tin tưởng gì, lại hơn
7 giờ tối rồi, nên tôi nói, vậy xin quí vị xuống trực tiếp thông báo về quyết định của
quí vị.
13/3
Tôi về đến Từ đàm thì đã 7g30 tối 14/4. Lòng khá bình thản, không vì tin
tưởng quyết định của chính quyền, mà vì ưóc mong có một thiện chí xuất từ lương
tri của con người, mà vì lòng đầy ắp phong cách của thánh Cam địa. Thêm nữa, tôi
chán ngán Tổng giám Thục bao nhiêu, thì có bấy nhiêu sự cảm mến giáo hoàng lúc
đó. Tôi càng tự kiểm rất kỹ, coi có tham vọng gì phi tôn giáo hay không, có tham
vọng gì phi cương vị của tôi hay không, có cẩn trọng hết mức trong phản ứng và
công việc hay không. Trước hết, và trên hết, Phật của tôi thường trú đóng trên đỉnh
đầu của tôi. Và Mẹ tôi ôm tôi, nhìn tôi, “con đi mà trả nghĩa cho Phật”, dầu cái đi
đó, hay, có thể là đi khỏi cuộc đời nầy. Tôi ứa nước mắt mà nghĩ như vậy. Đi theo
tôi vẫn là hòa thượng Mật nguyện, chắc chắn biết sự lặng lẽ của tôi. Về đến Từ đàm
thì các thầy Thiện siêu và thầy Thiện minh vẫn ngồi bên mâm cơm. Và thật hấp dẫn:
1 cốc nước chanh muối Nam kỳ, có đường và đá, đang mời gọi. Tôi uống và ăn. Vừa
ăn vừa làm việc. Thầy Chánh trực và anh Nguyễn khắc Từ đứng sát bàn ăn. Tôi hỏi,
giờ nầy, kiếm vải trắng và sơn đỏ, có không? Có cả rồi. Có, mà đúng vải trắng sơn
đỏ cả không. Rất đúng ý thầy. Tôi vui lắm, nói với thầy Thiện siêu, xin hạ bụi lồ ô.
Thầy bảo cưa mà hạ, róc mắt cho kỹ, cắt như nhau, để còn dùng nữa. Thầy Thiện
minh đưa ra một trang giấy có chữ. Tôi nói chỉ cần 5 biểu ngữ thôi: cần cho 5 hàng
dàn ngang, và mỗi hàng có 6 cái tính chiều dọc, tất cả cho chính diện sân chùa.
Những chỗ còn lại, và 3 mặt đường thì tự do. Năm biểu ngữ qui định như dưới đây:
1. Phật giáo Việt nam bất diệt!
2. Phản đối triệt cờ Phật giáo.
3. Tại sao xúc phạm Phật đản.
4. Phản đối chính sách chính phủ
5. Cầu nguyện hòa bình, hòa bình.
Viết cho đẹp. Phơi cho ráo. Biểu ngữ với cờ vừa phải với nhau. Mọi việc, cần
và rất cần. Ôông Thiện siêu nói, “ở đó mà chừ mới lo”! Tôi xin nằm nghỉ, nghĩ về
diễn từ “Phật đản 2507” sáng mai. Lại nghĩ, không cần tố giác những chuẩn bị của
chính quyền: 1 đội 5 chiến xa, 1 đội quân phục màu đen nằm sát bờ sông, từ sân đài
Phát thanh ngược lên đến sở Công chính. Tất cả sẽ xử dụng vào tối mai: Rằm tháng
4, Phật đản 2507 (1963). Địa điểm sử dụng: sân đài Phát thanh. Đó là những thông
tin có chứng cứ mà tôi được biết liên tiếp trong mấy ngày nay.
Trở lại câu chuyện. Tất cả 5 biểu ngữ nói trên được bí mật quyết định đi trước
trong đoàn rước Phật từ Diệu đế lên Từ đàm. Bộ phận đi trước nầy là Gia đình Phật
tử mà chỉ có huynh trưởng, thanh niên và một số thiếu niên. Đoàn biểu ngữ được lựa
chọn và bí mật giao cho huynh trưởng Gái điều khiển.
Huynh trưởng Gái lên đến đầu cầu Trường tiền thì một thầy coi trật tự (mà tôi
không báo trước) chận lại, thu hết biểu ngữ. Anh Gái điềm đạm để thầy ấy thu.
Nhưng khi đến cuối cầu, anh ra lịnh ngồi xuống. Thầy trật tự, sau khi thu biểu ngữ
đã bỏ vào xe riêng, qua cầu Trường tiền, ngồi nghỉ, chắc chắn đây không phải là tự
tung tự tác. Thầy đem lên cầu, trả lại cẩn thận. Đoàn rước tiếp tục, lên đến Từ đàm.
Thế rồi Phật đản 2507 cử hành, tại sân Từ đàm.. Diễn từ và Đại lễ vừa xong thì
rừng người, với cờ và biểu ngữ trương cao lên. Rồi cả thế giới biết Phật đản đau
thương ở Nam VN. Rồi nửa tuần sau, tôi viết và ký một điệp văn gửi Tổng thư ký
Liên hợp quốc, thông báo Nam Vn “vi phạm nhân quyền” qua sự đàn áp Phật đản
2507.
12/4
Xin mở đóng vòng đơn lớn ở đây để nói vài vấn đề đáng quan tâm. Đó là 1, Pg
VN có liên quan đến việc “bình Tây sát Tả” của vua tôi nhà Nguyễn, hay không? 2,
Pg VN có ganh tị với tư thế Tcg, hay không?
Hãy nói ván đề thứ 1. Năm 1963, đại diện Pg VN tiếp xúc với thủ tướng Ấn