Bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam

  • 19 trang
  • file: .pdf

đang tải dữ liệu....

Tài liệu bị giới hạn, để xem hết nội dung vui lòng tải về máy tính.

Tải xuống - 19 trang

Nội dung text: Bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam

Bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa trong
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
Nguyễn Thị Hải Yến
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật quốc tế; Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn: TS. Hoàng Ngọc Giao
Năm bảo vệ: 2009
Abstract: Đưa ra khái niệm, cách hiểu, đặc điểm của tri thức bản địa, những vấn đề
pháp lý liên quan tới tri thức bản địa như nguyên lý pháp lý của bảo hộ tri thức bản
địa, mối quan hệ giữa bảo hộ tri thức bản địa và pháp luật về sở hữu trí tuệ. Nghiên
cứu tình hình pháp luật quốc tế về bảo hộ tri thức bản địa thông qua quy định của các
định chế quốc tế lớn như WTO, WIPO, UNESCO và thực tế quy định bảo hộ tri thức
bản địa của một số các quốc gia. Thực trạng về pháp luật bảo hộ tri thức bản địa Việt
Nam, những kiến nghị về giải pháp bảo hộ.
Keywords: Luật Quốc tế; Bảo hộ; Pháp luật quốc tế; Pháp luật Việt Nam; Tri thức
bản địa
Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tri thức truyền thống được khai thác trên phạm vi toàn cầu hàng ngàn năm nay và được
cộng đồng quốc tế nghiên cứu nhằm tìm kiếm các công cụ pháp lý để bảo vệ từ những năm
bẩy mươi của thế kỷ trước. Cho đến nay, đây vẫn là chủ đề gây tranh luận không chỉ trên bình
diện quốc gia mà còn ở các diễn đàn quốc tế.
Tri thức bản địa được hiểu là là những kinh nghiệm được duy trì và đúc rút qua nhiều thế
hệ ở các cộng đồng cư dân từ thực tiễn sản xuất và đời sống. Cho tới nay, thế giới đã công
nhận tri thức bản địa là nguồn tri thức có tính hữu dụng cao trong cuộc sống hàng ngày của
con người và được xem là cơ sở cho những sáng tạo kế tiếp của nhiều ngành hoa học mà hiện
đang là mối quan tâm của toàn thế giới. Những tri thức này có thế kể đến là các tri thức về
thiên nhiên, y dược học, thực phẩm, văn hóa nghệ thuật… Trong quá trình toàn cầu hóa ngày
càng sâu rộng và nhờ có sự trợ giúp phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, tri thức bản
địa được biết đến nhiều hơn trở thành một trong những vấn đề được pháp luật quốc gia và
quốc tế quan tâm hơn. Tuy nhiên, việc tiếp cận thế nào để sử dụng nó được nhiều hơn, ai
được hưởng lợi và chia sẻ những lợi ích từ việc hưởng lợi như thế nào ngày càng gây tranh
cãi và bất đồng giữa các cộng đồng và các quốc gia.
Nằm trong tình hình chung hội nhập, Việt Nam cũng như các quốc gia đang phát triển
đang lo ngại về những tri thức truyền thống đúc rút từ kinh nghiệm của rất nhiều thế hệ cộng
đồng khác nhau sẽ không được sử dụng tương xứng với giá trị của nó. Trong khi quốc tế đang
có những nghiên cứu và hợp tác sâu rộng về bảo hộ tri thức truyền thống thì việc nghiên cứu
bảo hộ và bảo tồn tri thức bản địa của Việt Nam càng mang tính cấp thiết, đảm bảo cho chúng
ta có những kiến thức đầy đủ bảo vệ mình thông qua cơ chế chính sách pháp luật cụ thể, rõ
ràng đồng thời sẵn sàng kiến thức trong quá trình đàm phán quốc tế về vấn đề này.
Thực tế tận dụng thế mạnh tri thức để phát triển kinh tế, Đại hội Đảng lần thứ X Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh quốc tế mới
phải gắn với phát triển kinh tế tri thức: "Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra
và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phát triển mạnh các
ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng
nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại".
Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chín h tri ̣về bảo vê ̣ môi
trường trong thời kỳ đẩ y ma ̣nh công nghiê ̣p hóa , hiê ̣n đa ̣i hóa đấ t nước vì mu ̣c tiêu phát triể n
bề n vững , bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học là một trong ba nhiệm vụ trọng tâm của
công tác bảo vê ̣ môi tr ường (bên ca ̣nh các nhiê ̣m vu ̣ phòng ngừa và kiể m soát ô nhiễm , cải
thiê ̣n và nâng cao chấ t lươ ̣ng môi trường ). Đây là những định hướng rất cần thiết giúp chúng
ta có những quan tâm đặc biệt về việc tận dụng những tri thức truyền thống, kết hợp với tri
thức bên ngoài để phát triển kinh tế. Đồng thời, những định hướng trên cũng làm cơ sở cho
chúng ta xây dựng cơ chế bảo hộ vốn tri thức truyền thống, bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững. Về mặt luật pháp, mặc dù chưa có luật chuyên ngành về quản lý và khai thác tri
thức truyền thống, tuy nhiên chúng ta đã bắt đầu quy định việc bảo hộ nguồn tri thức này
thông qua các luật chuyên ngành như Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Bộ luật Dân sự năm
2005, Luật Đa dạng sinh học năm 2007, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005… Nhận thấy tầm
quan trọng và để đóng góp cho những nghiên cứu về tri thức truyền thống, cách thức bảo hộ
pháp lý trong việc sử dụng và chia sẻ lợi ích từ khai thác tri thức truyền thống, tôi đã lựa chọn
đề tài: "Bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam"
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
So với các đối tượng được bảo hộ pháp lý của luật sở hữu trí tuệ, bảo hộ tri thức bản địa
mới được đưa ra nghiên cứu trong những năm gần đây. Các nghiên cứu xuất hiện nước ta hiện
nay thể hiện ở những góc độ khác nhau và được trình bày dưới dạng các bài báo khoa học,
chuyên đề, báo cáo tổng kết… Có thể kể tới các nghiên cứu này như: Mối quan hệ giữa văn
hóa và môi trường, tài liệu dự án "Tri thức bản địa về môi trường" của Bùi Văn Thắng thuộc
Viện Văn hóa - Thông tin Hà Nội, 2007; "Bảo hộ tri thức truyền thống tại Việt Nam, vấn đề
pháp lý và thực tiễn" của Phạm Hồng Quất, Cục Sở hữu trí tuệ, 5/2008; một số tài liệu cho
phép tham khảo tại dự án Việt Nam - Thụy Sĩ về sở hữu trí tuệ (SVIP) 2007 - 2010; một số bài
viết của Tiến sĩ Peter- Tobias Stoll Bộ môn Luật môi trường và kinh tế thế giới, Khoa luật -
Đại học Geord - August, Gottingen, Đức như: Max-Planck - Tham luận về luật của Tổ chức
Thương mại Thế giới, quyển 1, Martinus Nijhoff, Nhà xuất bản Leiden, Boston, 2006 - 2008;
"Bảo hộ tri thức truyền thống cộng đồng bản địa", của Thanh Hương, Trung tâm Con người
và Thiên nhiên, 2009; "Cách tiếp cận của Hoa Kỳ: Nguồn gen, tri thức truyền thống và văn
2
hóa dân gian", của Jeanne Holden, chuyên đề về quyền sở hữu trí tuệ, ấn phẩm của chương
trình thông tin quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 1/ 2006; "Về khái niệm tri thức bản địa",
của Bùi Hoài Sơn, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, 2008; các bài viết về tri thức bản địa
của thạc sĩ Nguyễn Hữu Cải, Trường Đại học Nông - Lâm Thành phố Hồ Chí Minh; "Tri thức
bản địa và phát triển", của Bùi Thị Thu Hà, Ban Nghiên cứu Văn hóa sinh thái và Du lịch -
Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, 2007; "Thái Lan: Luật pháp bảo vệ nguồn gen thực vật"
của Surawit Wannakrairoj, Tạp chí Luật học, số 5, 2001; Báo cáo chuyên đề: "Phân tích, đánh
giá thực trạng pháp luật về đa dạng sinh học tại Việt Nam", của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, 2005; Báo cáo: "Tổng quan về đa dạng sinh học ở Việt Nam", của Bộ Tài nguyên và
Môi trường, 1/ 2008; … Tuy nhiên, nhìn chung chưa có một công trình nghiên cứu đầy đủ và
tổng thể về bảo hộ tri thức bản địa dưới góc độ pháp lý đáp ứng những đòi hỏi và thách thức
hội nhập hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm rõ khái niệm và bản chất của tri thức bản địa dưới
góc độ pháp luật; Cung cấp những nghiên cứu về các phương thức bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri
thức bản địa theo pháp luật quốc tế và thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề này
nhằm đưa ra những kiến nghị giải pháp cụ thể xây dựng pháp luật về bảo hộ tri thức bản địa ở
nước trong thời kỳ hội nhập.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Với mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Đưa ra khái niệm, cách hiểu, đặc điểm của tri thức bản địa, những vấn đề pháp lý liên
quan tới tri thức bản địa như nguyên lý pháp lý của bảo hộ tri thức bản địa, mối quan hệ giữa
bảo hộ tri thức bản địa và pháp luật về sở hữu trí tuệ.
- Tình hình pháp luật quốc tế về bảo hộ tri thức bản địa thông qua quy định của các định
chế quốc tế lớn như WTO, WIPO, UNESCO và thực tế quy định bảo hộ tri thức bản địa của
một số các quốc gia.
- Thực trạng về pháp luật bảo hộ tri thức bản địa Việt Nam, những kiến nghị của học viên
về giải pháp bảo hộ.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài rộng nên trong luận văn học viên không thể đề cập hết những vấn đề cụ
thể mà chỉ tập trung vào những phần chính mà tác giả cho là quan trọng nhất.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái niệm tri thức bản địa.
Chương 2: Những biện pháp bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa trong pháp luật
quốc tế.
Chương 3: Bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa trong pháp luật Việt Nam.
Chương 1
KHÁI NIỆM TRI THỨC BẢN ĐỊA
3
Chương này được chia ra làm nhiều mục nhỏ khác nhau nhằm giới thiệu và làm rõ khái
niệm tri thức bản địa thông qua việc đưa ra quan điểm của các tổ chức quốc tế lớn như WIPO,
WHO, ILO… bao gồm cách hiểu, cách gọi;dd điểm của tri thức bản địa;b hiện của tri thức
bản địa. Tiêp đó tác giả luận văn đưa ra lý luận nguyên lý pháp lý về bảo hộ tri thức bản địa,
mối quan hệ giữa bảo hộ tri thức bản địa và luật sở hữu trí tuệ.
1.1. Khái niệm tri thức bản địa
Khái niệm Tri thức bản địa được bóc tách làm 2 phần "tri thức" và "bản địa".
Về khái niệm Bản địa, Trong Công ước số 169 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO
Convention 169) để chỉ "người dân ở những nước độc lập được coi là những thổ dân căn cứ
theo nguồn gốc của họ có từ cư dân sinh sống tại nước đó, hay tại một khu vực địa lý nhất
định của nước đó, vào thời khi mà đất nước này bị xâm chiếm hay bị làm thuộc địa hay vào
lúc bắt đầu hình thành biên giới hiện nay của quốc gia này, và là những người không kể địa
vị pháp lý của họ thế nào, vẫn giữ lại một vài hoặc tất cả thể chế chính trị, văn hóa, kinh tế, xã
hội của riêng họ" (Điều 1).
Tuy nhiên, cũng có những cách hiểu khác, ví dụ, trong một quốc gia, nhiều khi những tộc
người thiểu số được gọi là bản địa. Trên phạm vi toàn cầu, đôi khi người ta gọi những dân tộc
có lịch sử sinh sống lâu đời trên một vùng đất là dân tộc bản địa. Như vậy, người Việt có thể
được coi là dân bản địa ở phương diện thế giới, những không được coi là dân tộc bản địa
trong phạm vi quốc gia.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khi nói về những kiến thức truyền thống về y học đã đưa ra
khái niệm "y học truyền thống".
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) khi đưa ra "Quy định mẫu cho luật quốc gia về
bảo hộ các tác phẩm văn hóa dân gian chống lại việc khai thác trái phép và những hành động
gây phương hại khác" năm 1982, dùng đồng thời những thuật ngữ "tri thức bản địa", "tri thức
truyền thống", "tri thức dân gian" và "tri thức thổ dân". Tuy nhiên sau này, những khái niệm
trên cũng được WIPO dùng không chỉ bao gồm đối tượng tri thức của hoạt động "biểu hiện
nghệ thuật truyền thống dân gian" mà còn là cả tri thức từ những hoạt động khác như bảo tồn
nguồn gen và tri thức truyền thống.
Luật một số nước cũng có những cách gọi khác nhau, có thế là "tri thức truyền thống kết
hợp", "tri thức bản địa" hoặc "tri thức tập thể"...
Nhìn chung những khái niệm trên có thể được hiểu giống nhau đó là những kiến thức
được một số cộng đồng dân cư hoàn thiện, duy trì, phát triển qua một thời gian dài, qua các
thế hệ khác nhau phản ánh sự tương tác qua lại giữa con người và môi trường tự nhiên.
Dựa trên điều kiện lịch sử của Việt Nam - đã từng là thuộc địa lâu dài của các nước như
Trung Quốc, Nhật bản, Pháp, Mỹ; căn cứ tình hình thực tế tri thức bản địa không chỉ bị đe dọa do
thiếu sự bảo tồn mà còn bị đe dọa bởi sự đánh cắp do áp lực toàn cầu hóa nên học viên cho rằng
nên gọi những tri thức mà đề tài này nghiên cứu với thuật ngữ là "tri thức bản địa" từ các thuật
ngữ đã nêu trên. Tuy nhiên, trong khi nghiên cứu, đề tài này cũng sẽ được sử dụng cả thuật ngữ
"tri thức truyền thống" và "tri thức bản địa".
1.2. Đặc điểm tri thức bản địa
Tri thức bản địa có những đặc trưng khác biệt nếu so sánh với các đối tượng bảo hộ của
quyền sở hữu trí tuệ, mhững đặc trưng có thể kể đến là: Tính cộng đồn, tính khoa học và trải
4
nghiệm, tính lãnh thổ, tính không chính thức, các tri thức bản địa thường gắn với những khái
niệm văn hóa tâm linh.
1.3. Biểu hiện của tri thức bản địa
Việc xác định hay cố gắng đưa ra một khái niệm cụ t thức bản địa là rất khó và có thể sẽ
làm hạn chế phạm vi của tri thức bản địa. Chính vì vậy rất cần thiết xác định những biểu hiện
của tri thức bản địa.
Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới phân loại tri thức bản địa bao gồm: Tri thức nông nghiệp;
tri thức khoa học; tri thức kỹ thuật; tri thức sinh thái; tri thức về thuốc, bao gồm các bài thuốc
và các phương pháp chữa bệnh; tri thức liên quan tới đa dạng sinh học.
Dưới góc độ quyền sở hữu trí tuệ, theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO), việc bảo hộ
những tri thức trên được chia thành ba mảng chính:
- Tiếp cận các nguồn gen và chia sẻ lợi ích;
- Bảo vệ sự sáng tạo trong tri thức truyền thống;
- Bảo hộ biểu hiện của văn hóa dân gian.
Đây là ba biểu hiện quan trọng và có liên hệ mật thiết với nhau và với quyền sở hữu trí
tuệ. Sở dĩ ba chủ đề trên ngày càng được quốc tế quan tâm, bàn thảo vì nó liên quan tới các
chính sách quan trọng của thế giới cũng như mỗi quốc gia về nông nghiệp, lương thực, đa
dạng sinh học, môi trường, nhân quyền, đa dạng văn hóa, sắc tộc, phát triển kinh tế và thương
mại. Đây là những vấn đề quan trọng bức thiết nổi lên gần đây đòi hỏi mỗi quốc gia phải quan
tâm, giải quyết.
1.3.1. Bảo vệ nguồn gen
1.3.2. Bảo hộ tri thức truyền thống
1.3.3. Bảo hộ các hình thức biểu hiện văn hóa dân gian
Ba mục nhỏ này làm rõ thêm phần biểu hiện của tri thức truyền thống, đưa ra cách hiểu
chung nhất theo WIPO về nguồn gen là gì, vì sao bảo vệ nguồn gen và chia sẻ lợi ích lại là
một phần của tri thức truyền thống - thực chất của vấn đề là tri thức truyền thống là phần quan
trọng đưa ra cách sử dụng và bảo tồn gen như thế nào; cũng như vậy, hai phần nhỏ còn lại đưa
ra cách hiểu thế nào về tri thức truyền thống, các hình thức biểu hiện văn hóa dân gian…
1.4. Tri thức bản địa và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa trong tình hình hiện nay
Ở phần này, tác giả luận văn muốn nêu lên thực trạng bảo hộ tri thức bản địa trước vòng
xoáy của toàn cầu hóa, những thuận lợi và khó khăn.
1.5. Bảo hộ pháp lý đối với tri thức bản địa
Bảo hộ pháp lý đối với tri thức bản địa được hiểu trong luận văn này là sự bảo hộ chống
lại việc sử dụng trái phép của bên thứ ba (như sao chép, phóng tác và sử dụng nhằm mục đích
thương mại). Đây là một hình thức bảo vệ hơn là bảo tồn (bảo tồn là bảo vệ tránh bị mất và
mai một; bảo vệ là việc tánh sử dụng trái phép hoặc sử dụng không được người khác cho
phép). Hiện tại có hai hình thức bảo hộ pháp lý đối với tri thức truyền thống đó là bảo hộ "tích
cực" và bảo hộ "phòng vệ".
Bảo hộ "tích cực": Là việc tri thức bản địa có được các quyền bảo vệ của quyền sở hữu trí
tuệ, các quyền sở hữu trí tuệ này nhằm tạo ra các sự bảo hộ tích cực chống lại một loạt các
hành vi như khai thác trái phép, làm sai lệch làm giảm giá trị, trích dấn sai lệch về nguồn gốc
hay không công bố nguồn gốc tri thức bản địa khi sử dụng…
5
Bảo hộ phòng vệ: Đây là việc sử dụng dữ liệu thống kê chính thức về các loại tri thức bản địa
nhằm loại trừ hoặc phản đối các quyền đối với các sáng chế được yêu cầu bảo hộ mà có sử dụng
trực tiếp từ tri thức bản địa này.
1.6. Nguyên lý pháp lý bảo hộ tri thức bản địa
Mục này đưa ra câu hỏi và trả lời vì sao phải bảo hộ tri thức bản địa? Việc này sao bây
giờ mới đặt ra mà không phải là từ trước đây.
Có hai nguyên nhân mà chúng ta phải đặt ra vấn đề bảo hộ đó là giá trị mà tri thức bản địa
đem lại đối với đời sống con người và tri thức bản địa thực sự là nguồn tri thức khoa học, có
thử nghiệm và sửa đổi theo thời gian. Đây là thành quả sáng tạo cần phải được bảo vệ.
Thực tế những giá trị tri thức bản địa đang bị mai một và đánh cắp hiện nay thể hiện ở hai
giai đoạn: Thứ nhất, đó là việc tước đoạt khỏi cuộc sống của người dân bản địa những tri thức
mà họ chính là chủ nhân tìm ra, duy trì và phát triển, những tri thức này quan trọng trong việc
sinh sống hàng ngày của họ; thứ hai, họ bị mất đi khả năng khẳng định quyền khi bên thứ ba
sử dụng những tri thức truyền thống của họ đăng ký bản quyền, và người dân bản địa khi
muốn sử dụng lại phải trả tiền cho các sản phẩm đã được đăng ký bản quyền kia.
1.7. Tri thức bản địa với vấn đề quyền sở hữu trí tuệ
Mục này lý giải mối quan hệ giữa quyền sở hữu trí tuệ và việc bảo hộ tri thức bản địa.
Thực tế hiện nay có nhiều quan điểm về vấn đề này, có quan điểm cho rằng không thể sử
dụng quyền sở hữu trí tuệ để bảo hộ tri thức bản địa. Tuy nhiên, theo quan điểm chung cũng
như quan điểm của các định chế quốc tế lớn như WIPO và WTO, khi chúng ta chưa tìm được
một luật riêng bảo hộ tri thức truyền thống thì việc sử dụng luật về quyền sở hữu trí tuệ để bảo
hộ tri thức truyền thống là một giải pháp tối ưu giúp đảm bảo quyền của người nắm giữ tri
thức truyền thống.
Việc tìm kiếm bảo hộ tri thức truyền thống bằng luật sở hữu trí tuệ cũng tác động đòi hỏi
thay đổi cách nhìn nhận về sáng tạo trong luật sở hữu trí tuệ trước đây về việc ghi nhận chính
xác và đầy đủ ai sáng tạo, sáng tạo đến đâu một công trình.
Chương 2
NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO HỘ VÀ CHIA SẺ LỢI ÍCH
TRI THỨC BẢN ĐỊA TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VÀ THỰC TIỄN CỦA MỘT SỐ NƯỚC
2.1. Một số vấn đề cơ bản trong bảo hộ tri thức bản địa
Mục này tác giả luận văn khái quát lịch sử bảo hộ tri thức bản địa của pháp luật quốc tế có từ
khi nào và hiện tại còn đang bản thảo vấn đề gì.
Về lịch sử bảo hộ tri thức bản địa chính thức được đặt ra do tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
WIPO và Tổ chức Giáo dục và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) năm 1978; năm 1982 hai
định chế quốc tế lớn này đã cho đời "các quy định mẫu đối với luật quốc gia về bảo hộ các
hình thức thể hiện văn hóa dân gian chóng lại việc khai thác bất hợp pháp và những hành vi
xâm phạm khác"; năm 2000, Ủy ban liên chính phủ về sở hữu trí tuệ và tri thức truyền thống,
gen và văn hóa dân gian được thành lập trong khuôn khổ WIPO đã được thành lập. Ngoài
WIPO, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong các vòng đàm phán của mình cũng có
6
những hoạt động đề xuất tích cực về việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong đó có các quy
định liên quan tới việc sử dụng tài nguyên là tri thức bản địa. Gần đây nhất, nằm trong khuôn
khổ vòng đàm phán Doha, tại phiên họp lần thứ 45, năm 2007, Hội đồng TRIPs (Hội đồng
nghiên cứu về các khía cạnh thương mại liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ) đã đặc biệt đàm
phán và thảo luận về những vấn đề như: Sáng chế dược phẩm, chỉ dẫn địa lý, mối quan hệ
giữa sở hữu trí tuệ và đa dạng sinh học, bảo hộ tri thức truyền thống và văn hóa dân gian…
2.1.1. Vấn đề chủ quyền quốc gia đối với tài nguyên thiên nhiên và tri thức truyền
thống
2.1.2. Vấn đề thực thi quyền ở nước ngoài - nguyên tắc đối xử quốc gia
2.1.3. Vấn đề chia sẻ lợi ích trong việc sử dụng và khai thác Tri thức bản địa
Đây là những vấn đề quan trọng liên quan tới tính chủ quyền quốc gia, quyền của quốc
gia có tài nguyên đối với tài sản của mình. Do tính đặc trưng của tri thức bản địa là có tính
cộng đồng, dễ phát tán, nên tác giả luận văn đưa ra vấn đề là chủ quyền quốc gia có nguồn tri
thức truyền thống sẽ như thế nào, thực thi quyền này như thế nào ở nước ngoài… Cũng như
vậy, vấn đề chia sẻ lợi ích tri thức bản địa như thế nào, thực chất là làm rõ cụ thể quyền của
người dân bản địa.
Yêu cầu quan trọng của quyền chủ quyền quốc gia đối với tài nguyên thiên nhiên và tri
thức truyền thống chủ yếu liên quan đến quyền của một quốc gia được tự do quy định cách
thức khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. Việc phát triển những quy trình phát triển
kinh tế, cơ chế chuyển giao sử dụng, thuế, và đặc biệt là việc kiểm soát hành động của các
quốc gia khác đối với việc khai thác nguồn tài nguyên và tri thức truyền thống là nội dung
chính của quyền được nêu. Chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên và trách nhiệm không
gây tổn hại tới môi trường của quốc gia khác hoặc các vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc
gia là một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc bình đẳng của luật quốc tế.
2.2. Luật quốc tế về bảo hộ và chia sẻ lợi ích từ tri thức truyền thống, gen và các
hình thức thể hiện văn hóa dân gian
2.2.1. Bảo hộ và chia sẻ lợi ích từ tri thức truyền thống
Theo khuyến nghị của WIPO, có thể sử dụng các công cụ bảo hộ của luật sở hữu trí tuệ để
bảo hộ tri thức truyền thống nói chung khi chưa thể tìm ra giải pháp riêng như:
Thứ nhất: Sử dụng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hiện có để bảo hộ nội dung, ý tưởng của
tri thức truyền thống dưới hình thức bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế;
Thứ hai: Sử dụng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hiện có để bảo hộ hình thức thể hiện của
tri thức truyền thống dưới hình thức bảo hộ quyền tác giả;
Thứ ba: Sử dụng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hiện có để bảo hộ danh tiếng, uy tín và
yếu tố có vai trò chỉ dẫn thương mại đối với các sản phẩm truyền thống dưới hình thức bảo hộ
nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh;
Thứ tư: Sử dụng hệ thống bảo hộ riêng (sui generis) nhằm tạo ra cơ chế bảo hộ thực sự
phù hợp và đầy đủ đối với tri thức truyền thống, dưới hình thức quy định riêng về nghĩa vụ
bộc lộ, về việc nộp lưu mẫu, xin phép chủ thể nắm giữ tri thức truyền thống…
2.2.2. Bảo hộ các hình thức thể hiện văn hóa dân gian
7
Mặc dù sau này áp dụng chung cho cả việc bảo hộ các hình thức khác của tri thức bản địa
nhưng khi muốn tìm hiểu về phương cách bảo hộ các hình thức thể hiện văn hóa dân gian
người ta quay lại bộ luật mẫu do WIPO và UNESCO xây dựng, đây là cơ sở để cho các quốc
gia tham khảo khi xây dựng luật pháp bảo hộ các tri thức truyền thống nói chung và các hình
thức biểu hiện văn hóa dân gian nói riêng.
2.2.3. Bảo hộ tri thức bản địa về tiếp cận nguồn gen, bảo tồn và chia sẻ lợi ích từ gen
2.2.3.1. Bảo hộ tri thức bản địa về Gen thông qua cơ chế cấp patent
2.2.3.2. Bằng chứng về nguồn gốc hoặc về tiếp cận trong quá trình xử lý đơn yêu cầu cấp
Bằng sáng chế - patent
Hiện tại, tri thức về gen, cách tiếp cận và chia sẻ lợi ích từ gen đang được các quốc gia
quan tâm đặc biệt là các định chế quốc tế lớn như WIPO, WTO do vai trò của gen rất quan
trọng trong sự phát triển bền vững của thế giới cũng như cá nhân mỗi quốc gia.
WIPO đã có hẳn một báo cáo nghiên cứu về việc sử dụng phương thức bảo hộ Paten để
bảo hộ cho các tri thức về gen và chia sẻ lợi ích từ tri thức về gen. Đây là một trong những
giải pháp quan trọng để bảo tồn gen và các tri thức về gen. Song song với việc tìm hiểu cơ chế
cấp patent để bảo vệ gen, học viên cũng đặt một mục với nội dung bằng chứng nguồn gốc để
cấp patent liên quan đến gen. Đây là phần gây tranh cãi nhiều nhất hiện nay của TRIPs trong
các vòng đàm phán Doha. là liệu có bắt buộc phải đưa ra bằng chứng nguồn gốc của vật liệu
sáng tạo khi nộp đơn xin cấp patent hay không. Pháp luật chuyên ngành về bảo tồn thiên
nhiên như Công ước đa dạng sinh học, Hướng dẫn Bonn và luật pháp các nước, khu vực cũng
đặt ra vấn đề này.
2.3. Một số mô hình bảo vệ tri thức truyền thống trên thế giới
2.3.1. Bảo vệ tri thức truyền thống theo quan điểm pháp luật Mỹ
Các quy định chủ yếu tập trung tại Đạo luật về mỹ thuật và thủ công thổ dân da đỏ năm
2000 (Indian Arts and Crafts Act - IACA), dữ liệu USPTO về biểu hiện chính thức của các bộ
tộc người Mỹ bản xứ - phần dữ liệu được thiết lập kèm Đạo luật thi hành Hợp đồng luật nhãn
hiệu năm 1998 (USPTO Database of the Trademark Law Treaty Implementation Act). Tuy
nhiên các quy định về quyền sở hữu trí tuệ (chủ yếu là xem xét việc cấp bằng sáng chế) cũng
rất quan trọng giúp Hoa Kỳ giải quyết tốt vấn đề quản lý tri thức truyền thống.
Hoa kỳ cũng xây dựng một cơ sở dữ liệu và khuyến khích các quốc gia khác xây dựng
một cơ sở dữ liệu về tri thức truyền thống để thực hiện việc loại trừ cấp bằng bảo hộ không
trung thực...
2.3.2. Bảo hộ tri thức bản địa theo pháp luật Philippines
Những quy định về bảo hộ tri thức truyền thống được nêu trong Hiến pháp Philippines
năm 1987, theo đó Nhà nước công nhận, tôn trọng và bảo hộ các quyền của cộng đồng văn
hóa bản địa nhằm bảo tồn và phát triển các nền văn hóa, truyền thống và thiết chế của những
cộng đồng này. Luật về quyền của người bản địa - Luật cộng hòa số 8371 (Indigenous
Peoples Right Act of 1997 (IPRA) cũng quy định bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ đối với tri
thức bản địa của các cộng đồng (Điều 32, Điều 34). Ngoài ra, hiện nay, Philippine còn có 3
dự luật đang trình quốc hội, quy định về việc thiết lập một hệ thống bảo hộ các quyền sở hữu
trí tuệ của cộng đồng trong đó có tri thức truyền thống.
2.3.3. Bảo hộ tri thức bản địa theo pháp luật Trung Quốc
8
Trung Quốc là quốc gia đang nỗ lực xây dựng cơ chế pháp lý để bảo hộ tri thức truyền
thống tích cực thông qua việc xây dựng văn bản pháp luật như: Các quy định bằng văn bản
pháp luật thể hiện rõ ràng nhất trong Luật Patent năm 2000 (Patent Law 2000) và Các quy
định về bảo vệ sự đa dạng của y học cổ truyền (Regulationas on the Protection of Varieties of
Chinese Traditional Medicine). Bên cạnh đó, việc xây dựng một cơ sở dữ liệu về tri thức
truyền thống đặc biệt là ngành y dược học đang được tích cực xây dựng. Cơ sở dữ liệu này
được xem là một phần phụ lục của Luật Patent.
Chương 3
BẢO HỘ VÀ CHIA SẺ LỢI ÍCH TRI THỨC BẢN ĐỊA
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
3.1. Bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa ở Việt Nam
Cũng như một số các quốc gia đang phát triển Việt Nam hiện đang đứng trước một thách
thức lớn trong việc xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ và chi tiết để bảo hộ hệ thống tri
thức truyền thống của mình do có những hạn chế về lập pháp, lịch sử pháp lý còn quá mới mẻ
với vấn đề tri thức bản địa, chuyên gia nghiên cứu vấn đề này hầu hết đều thuộc khoa học
chuyên ngành, chuyên gia pháp lý hầu như chưa có và chưa có sự chẩn bị đầy đủ về kiến thức
pháp lý để giải quyết và tham gia tư vấn cũng như tham gia đàm phán tầm quốc tế khi có sự
kiện liên quan tới quyền lợi về tri thức truyền thống của mình. Tuy nhiên ý thức được tầm
quan trọng của tri thức truyền thống, chúng ta bước đầu đã có những công nhận, tạo điều kiện
để việc bảo hộ đối tượng này tốt hơn thông qua đường lối, chủ trương và các văn bản pháp lý
mới.
3.1.1. Chính sách pháp luật về bảo vệ và chia sẻ lợi ích tri thức bản địa ở Việt Nam
hiện nay
Đại hội Đảng lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong bối cảnh quốc tế mới phải gắn với phát triển kinh tế tri thức: "Tranh thủ cơ hội
thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri
thức mới nhất của nhân loại".
Văn kiê ̣n của các kỳ Đa ̣i hô ̣i Đảng toàn quố c và đươ ̣c nhấ n ma ̣nh trong Nghi ̣quyế t số
41/NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ
đẩ y ma ̣nh công nghiê ̣p hóa , hiê ̣n đa ̣i hóa đấ t nước vì mu ̣c tiêu phát triể n bề n vững , bảo tồn
thiên nhiên và đa dạng sinh học là mô ̣t trong ba nhiê ̣ m vu ̣ tro ̣ng tâm của công tác bảo vê ̣ môi
trường (bên ca ̣nh các nhiê ̣m vu ̣ phòng ngừa và kiể m soát ô nhiễm , cải thiện và nâng cao chất
lươ ̣ng môi trường ) Cụ thể, kế hoạch tổng thể phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học ở
Việt Nam đến năm 2020 được xác định là: Nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng rộng
rãi, có hiệu quả công nghệ sinh học vào sản xuất và đời sống; xây dựng công nghiệp sinh học
trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật công nghệ cao, sản xuất được các sản phẩm chủ lực,
thiết yếu và đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân; tập trung
nguồn lực, đa dạng hóa hình thức đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư đối với công nghệ sinh
9
học, hình thành và phát triển thị trường công nghệ sinh học để đến năm 2020 công nghệ sinh
học của Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, một số lĩnh vực thiết yếu đạt trình độ,
tiêu chuẩn quốc tế. Cụ thể về đường lối phát triển thế chế thành luật chúng ta có: Quyết định
số 188/2005/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 04 tháng 3 năm
2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ
sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Quyết định số:
14/2008/QĐ-TTg Hà Nội, ngày 22 tháng 01 năm 2008 "Kế hoạch tổng thể phát triển và ứng
dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam đến năm 2020". Chúng ta cũng đã bước đầu có những
nghiên cứu và quy định bảo hộ liên quan tới tri thức truyền thống như Luật Bảo tồn văn hóa
2001, Bộ luật Dân sự 2005, Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Luật Đa dạng sinh học năm 2007, Luật
Bảo vệ môi trường năm 2008... Về hợp tác quốc tế, chúng ta cũng đã ký kết được các công
ước quan trọng để bảo hộ tri thức truyền thống như:
- Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, còn được gọi ngắn gọn
là Công ước Berne, được ký tại Bern (Thụy Sĩ) năm 1886, Việt Nam tham gia năm 2004;
- Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Việt Nam tham gia năm 1949;
- Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế các nhãn hiệu năm 1891, trong đó quy định việc
đăng ký quốc tế nhãn hiệu tại Văn phòng quốc tế của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO)
ở Geneva, Việt Nam tham gia Thỏa ước này từ ngày 08/3/1949;
- Hiệp ước Hợp tác Patent (PCT) Washington 1970, Việt Nam tham gia Hiệp ước từ ngày
10/3/1993.
- Hiệp định TRIPs - Hiệp định về các khía cạnh quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới thương
mại trong khuôn khổ WTO, Việt Nam tham gia ký kết năm 2006.
3.1.2. Thực trạng bảo hộ và chia sẻ lợi ích từ tri thức bản địa
Do đặc điểm đối tượng sáng tạo của tri thức bản địa thường là tập thể, đa dạng về tri thức,
trải nghiệm qua nhiều thế hệ và thời gian nên việc bảo hộ và chia sẻ lợi ích Tri thức bản địa
gặp không ít những khó khăn về cách thức, đường lối giải quyết các vụ việc thực tế phát sinh
khi chưa có những quy định hay hướng dẫn giải quyết cụ thể.
Mặc dù một nhiều đối tượng tri thức bản địa đã có quy định trong luật sở hữu trí tuệ
nhưng khi áp dụng thực tế lại rất khó khăn trong việc xác định cơ chế xác lập, bảo hộ và thực
thi các quyền đối với tri thức bản địa, những biện pháp để quản lý các quyền, cơ chế đăng ký
và bảo hộ các Tri thức bản địa, việc lập các tài liệu về tri thức bản địa, việc đưa các tri thức
bản địa vào "tình trạng kỹ thuật" để tra cứu, xét nghiệm sáng chế. Muốn vậy, chúng ta phải có
hướng dẫn cụ thể về hướng xác lập các phương thức bảo hộ quyền của người nắm giữ tri thức
bản địa theo phương thức bảo hộ nào của Luật Sở hữu trí tuệ, phương thức bảo vệ tác giả hay
quyền sở hữu công nghiệp như sáng chế, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ
dẫn địa lý... Việc thiết lập một cơ sở dữ liệu, nơi dùng để kiểm tra, đối chiếu thông tin về tình
trạng của các tri thức bản địa cũng rất cần thiết khi muốn xem xét cấp một quyết định bảo hộ,
tuy nhiên chúng ta vẫn chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu này.
Một số vụ việc khác được giải quyết thành công theo hướng áp dụng phương thức bảo hộ của
các sản phẩm thuộc sở hữu trí tuệ như sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa… Ví
10
dụ: Sáng chế "Thuốc cai nghiện ma túy từ thảo mộc", nhãn hiệu hàng hóa "Dầu gió Trường Sơn
và Hình".
Việt Nam cũng đã bắt đầu quan tâm bảo vệ tri thức truyền thống cũng như quyền của
người nắm giữ tri thức này thông qua việc ghi nhận: Bảo vệ quyền tập thể của nhóm người,
buộc dẫn chiếu xuất xứ sản phẩm, tác phẩm khi tác giả của sáng chế hay tác phẩm có yêu cầu
bảo hộ theo một phương thức bảo hộ của quyền sở hữu trí tuệ, hoặc đặt ra yêu cầu tôn trọng
giá trị truyền thống, di sản, văn hóa, môi trường nếu là tác phẩm hay sáng chế muốn nhận
được chứng nhận bảo hộ… Tuy nhiên về tổng thể vẫn cần có những giải pháp chung, đồng bộ
để có thể đưa ra hướng giải quyết cho mỗi trường hợp thuộc các mảng khác nhau của loại
hình tri thức này.
3.1.3. Bảo hộ và chia sẻ lợi ích các hình thức biểu hiện văn hóa dân gian
Biểu hiện của văn hóa dân gian cụ thể là: thể hiện bằng ngôn ngữ, bao gồm truyện thơ,
câu đối dân gian; thể hiện bằng âm nhạc bao gồm bài hát và nhạc cụ dân gian; thể hiện bằng
hành động bao gồm các điệu múa, vở kịch và nghi lễ nghệ thuật dân gian; thể hiện lồng trong
một vật thể tồn tại ở dạng hữu hình bao gồm các bức tranh vẽ, tượng, tác phẩm điêu khắc, đồ
gốm, khảm, mộc, tác phẩm kim loại, đá quý, dệt, thảm, trang phục, nhạc cụ và các hình mẫu
kiến trúc dân gian khác được thể hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào (Điều 23 khoản 1
Luật Sở hữu trí tuệ 2005).
Quyền tác giả của văn học nghệ thuật dân gian Việt Nam hay các quyền tác giả của các
loại hình thể hiện văn hóa dân gian được xác định thuộc bảo hộ của Nhà nước từ Hiến pháp
1992 (Điều 30 quy định Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân
tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt
Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát
huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân; Điều 32 quy định về việc nhà nước tạo điều kiện để
nhân dân thưởng thức, bảo trợ để phát triển tài năng phát triển văn hóa, khuyến khích phát
triển đa dạng các loại hình văn hóa dân tộc. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định các tác phẩm
nghệ thuật dân gian được bảo hộ theo cơ chế quyền tác giả (Điều 14); Bộ luật Dân sự Việt
Nam 2005 mặc dù chưa có quy định cụ thể về đối tượng tri thức truyền thống cũng như quyền
tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhưng đã để ngỏ khi quy định: "Đối tượng
quyền tác giả bao gồm mọi sản phẩm sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa
học được thể hiện dưới bất kỳ hình thức và bằng bất kỳ phương tiện nào, không phân biệt nội
dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào".
3.1.4. Bảo hộ và chia sẻ lợi ích từ tri thức truyền thống
Tri thức truyền thống theo pháp luật Việt Nam được bảo hộ theo một số phương thức bảo
hộ như của quyền tác giả, sáng chế, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh…Các văn bản pháp luật
có thể kể đến … Thông tư 01/2007/TT-BKHCN Ngày 14 tháng 2 năm 2007, hướng dẫn thi
hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp ghi
nhận (Điểm 23.11); Điều 750 của Bộ luật Dân sự 2005 cũng quy định để ngỏ cho phép các
luật gia có thể áp dụng bảo hộ các biểu hiện sáng tạo liên quan tới tri thức truyền thống như
sáng chế, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý... Thực tế chúng ta đã
làm được việc này, theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ, tới tháng 7/ 2008 đã có 13 chỉ dẫn
địa lý đã được đăng ký bảo hộ - là các địa danh nổi tiếng về nông thủy hải sản và các chế
11
phẩm từ nông thủy hải sản, ví dụ: Nước mắm Phú Quốc, Cam Vinh, Hồi Lạng Sơn, Chè San
Tuyết, Thanh long Bình Thuận, Gạo Hải Hậu, Vải thiều Lục Ngạn, Vải thiều Thanh Hà, Cà
Phê Buôn Mê Thuột…
3.1.4. Bảo tồn nguồn gen và bản quyền tri thức truyền thống về nguồn gen
Luật Đa dạng sinh học 2007 là một bước đánh dấu quan trọng trong việc bảo tồn và chia
sẻ lợi ích từ gen. Luật quy định: Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân thực hiện điều tra,
thu thập, đánh giá, cung cấp thông tin về nguồn gen để xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn gen
và bảo đảm quyền được tiếp cận cơ sở dữ liệu về nguồn gen (Điều 63). Về bản quyền tri thức
truyền thống về nguồn gen, Điều 64 luật này cũng quy định: "1. Nhà nước bảo hộ bản quyề n
tri thức truyề n thố ng về nguồ n gen , khuyến khích và hỗ trợ tổ chức , cá nhân đăng ký bản
quyền tri thức truyề n thố ng về nguồn gen " và "Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì phối hợp
với bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan hướng dẫn thủ tục đăng ký bản quyền tri thức truyề n
thố ng về nguồn gen".
Liên quan tới việc đưa ra nguồn gốc của vật liệu sáng tạo, Thông tư 01/2007/TT-BKHCN
Ngày 14 tháng 2 năm 2007, hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng
9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở
hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp. Điểm 23.11: Đơn đăng ký sáng chế liên quan đến nguồn
gen hoặc tri thức truyền thống còn phải có tài liệu thuyết minh về nguồn gốc của nguồn gen
và/hoặc của tri thức truyền thống mà tác giả sáng chế hoặc người nộp đơn đã tiếp cận, nếu
sáng chế trực tiếp dựa trên nguồn gen và/hoặc tri thức truyền thống đó.
Về chia sẻ lợi ích từ tiếp cận nguồn gen, Luật Đa dạng sinh học cũng đưa ra chính sách
phân chia lợi ích cho các đối tượng có công như : a) Nhà nước ; b) Tổ chức, hô ̣ gia điǹ h , cá
nhân được giao quản lý nguồn gen; c) Tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép tiếp cận nguồn
gen và các bên có liên quan khác đươ ̣c quy đinh
̣ trong giấ y phép tiế p câ ̣n nguồn gen .
3.2. Một số kiến nghị xung quanh việc bảo hộ và chia sẻ lợi ích tri thức truyền thống
bằng pháp luật ở Việt Nam
Nhiệm vụ chung của các nhà làm luật nên đảm bảo một số các yêu cầu sau khi tham gia
xây dựng chính sách pháp luật bảo hộ tri thức truyền thống:
Các nhiệm vụ cụ thể chúng ta phải làm có thể đưa ra như sau:
1. Xây dựng một định hướng chung về nguyên tắc và quy định pháp luật về bảo hộ ti thức
bản địa thông qua các quyết định quan trọng của các cơ quan chức năng liên quan
2. Thống kê, tư liệu hóa các tri thức truyền thống thành một phần trong tư liệu tham
khảo, đối chiếu của quyền sở hữu trí tuệ.
3. Có những hướng dẫn cụ thể cho việc áp dụng luật sở hữu trí tuệ để áp dụng cho việc
bảo hộ tri thức truyền thống
4. Đẩy mạnh việc nghiên cứu hợp tác quốc tế về trao đổi kinh nghiệm trong việc bảo hộ
tri thức bản địa; cần xác định việc nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm trong việc bảo hộ và
chia sẻ lợi ích tri thức bản địa là việc làm quan trọng để từ đây có cơ sở để tham gia đàm phán
hội nhập các vấn đề liên quan tới quyền lợi của Việt Nam trong việc bảo vệ tri thức bản địa;
tham gia ký kết các điều ước quốc tế có các quy định liên quan tới bảo hộ tri thức bản địa.
5. Xây dựng một đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực bảo hộ quyền tri thức bản địa
12
6. Tuyên truyền, tăng cường nâng cao nhận thức của người dân về giá trị của tri thức
truyền thống, tầm quan trọng của việc bảo hộ khối tri thức này. Khuyến khích hợp tác từ
người dân.
7. Xây dựng một cơ chế chia sẻ lợi ích cụ thể và chi tiết.
KẾT LUẬN
Tri thức bản địa là phần không thể thiếu được trong đời sống sinh hoạt và tâm linh của
người dân bản địa. Tri thức bản địa mang đặc trưng của mỗi vùng miền và là phần quan trọng
trong việc xây dựng hình ảnh của mỗi quốc gia. Trong thời kỳ toàn cầu hóa, với sự phát triển
vượt bậc của khoa học kỹ thuật, tri thức bản địa ngày càng được biết đến với vai trò là cơ sở
cho các sáng tạo kế tiếp mang lại những nguồn lợi khổng lồ. Công cụ pháp lý bảo hộ tri thức
truyền thống mặc dù đang gặp phải những khó khăn nhất định trong việc đưa ra khái niệm
chính xác về tri thức truyền thống, phương thức bảo hộ, cách thức tiến hành bảo hộ… nhưng
cộng đồng quốc tế cũng như cá nhân mỗi quốc gia vẫn nỗ lực nhằm tìm kiếm sự thống nhất về
biện pháp để bảo vệ, mô hình và nội dung bảo vệ thông qua các vòng đám phán của các thể
chế lớn như WTO, WIPO…
Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng một khung pháp lý bảo hộ tri thức
truyền thống, Việt Nam bắt đầu có những nghiên cứu về nguồn trí thức này thông qua các
dự án phát triển hỗ trợ và khuyến khích người dân bảo tồn và phát triển tri thức bản địa
đồng thời với việc thống kê và ghi nhận những tri thức này như một phần quan trọng của
cộng đồng dân cư; Xây dựng những quy định có thể áp dụng quản lý việc tiếp cận, khai thác
nguồn tri thức bản địa thông qua các luật chuyên ngành.
Vì chưa có luật chuyên ngành điều chỉnh riêng về đối tượng là tri thức bản địa nên luật về
quyền sở hữu trí tuệ hiện nay và tiếp tục sẽ là một giải pháp phục vụ cho các cá nhân và người
dân ở cộng đồng các địa phương đáp ứng được những tiêu chuẩn, yêu cầu phù hợp để được
bảo vệ hợp pháp. Việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ có liên quan tới bảo hộ tri
thức bản địa rất quan trọng, nó đảm bảo cho chúng ta có thể trang bị một cách đầy đủ và khách
quan những yêu cầu nghiên cứu pháp lý bảo hộ. Hiện tại những công ước về sở hữu trí tuệ mà
chúng ta ký kết như Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật 1886, Công
ước Paris 1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế các nhãn
hiệu năm 1891... đã phát huy vai trò của mình trong việc điều chỉnh bảo hộ một số mảng của
tri thức bản địa như văn học nghệ thuật, quyền sở hữu công nghiệp… Tuy nhiên, do đặc điểm
của tri thức bản địa có những khác biệt so với các đối tượng được bảo vệ trong luật về quyền
sở hữu trí tuệ, tri thức bản địa lại là đối tượng phạm trù rộng so với phạm vi điều chỉnh của
luật về quyền sở hữu trí tuệ hiện nay, chính vì vậy việc tìm kiếm một giải pháp giải quyết cho
từng trường hợp bảo hộ cụ thể cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng ở tầm vĩ mô cũng như rất
cần có sự hợp tác hơn nữa giữa các bộ ngành liên quan.
Trong giới hạn các nguồn tài liệu cũng như thông tin thu thập được, học viên mong muốn
đưa ra những tập hợp phân tích, nghiên cứu và kiến nghị góp phần vào quá trình xây dựng và
hoàn thiện pháp luật bảo hộ tri thức truyền thống. Tuy nhiên, với một chủ đề phức tạp và dàn
trải đòi hỏi sự xem xét thấu đáo và kỹ lưỡng hơn nữa, học viên sẽ cần có quá trình nghiên cứu
tiếp nối sâu sau đề tài này.
13
References
1. Lê Thanh Bình (2006), Tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích - Những thách thức trong
việc thực hiện Công ước đa dạng sinh học ở Việt Nam, Cục Bảo vệ Môi trường, Hà
Nội.
2. Bộ Khoa học - Công nghệ (2007), Thông tư 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/2 hướng dẫn thi
hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu
công nghiệp, Hà Nội.
3. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (2003), Báo cáo tổng hợp tri thức truyền thống
và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005), Báo cáo tổng hợp về sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
5. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về đa dạng
sinh học tại Việt Nam, Báo cáo chuyên đề, Hà Nội.
6. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Tổng quan về đa dạng sinh học ở Việt Nam, Báo
cáo chuyên đề, Hà Nội;
7. Hoàng Hữu Cải (2008), Tri thức bản địa là gì, Trường Đại học Nông - Lâm Thành phố
Hồ Chí Minh.
8. Chính phủ (1994), Nghị định số 175/CP ngày 18/10 hướng dẫn. thi hành Luật Bảo vệ môi
trường, Hà Nội.
9. Chính phủ (2003), Nghị định 103/2003/NĐ-CP ngày 12/9 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân, Hà Nội.
10. Chính phủ (2003), Nghị định số 222/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt chính sách quốc gia
về y dược học cổ truyền đến năm 2010, Hà Nội.
11. Chính phủ (2006), Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3 quy định chi tiết Luật Thương
mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, Hà Nội.
12. Chính phủ (2006), Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04/4 quy định chi tiết Luật Thương
mại về hoạt động xúc tiến thương mại, Hà Nội.
14
13. Chính phủ (2006), Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6 quy định chi tiết Luật Thương
mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có
điều kiện, Hà Nội.
14. Chính phủ (2006), Nghị định 80/2006/NĐ-CP về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều Luật Bảo vệ môi trường về tiêu chuẩn môi trường; đánh giá môi
trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường;
bảo vệ môi trường trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; quản lý chất thải nguy hại;
công khai thông tin, dữ liệu về môi trường, Hà Nội.
15. Chính phủ (2006), Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9 hướng dẫn thi hành Luật Sở
hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, Hà Nội.
16. Chính phủ (2006), Nghị định 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, Hà Nội.
17. Chính phủ (2006), Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản
lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
18. Chính phủ (2006), Nghị định số 108/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Đầu tư 2005, Hà Nội.
19. Chính phủ (2006), Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11 quy định chi tiết thi hành các
quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Hà Nội.
20. Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (1886).
21. Công ước Geneve về bảo hộ nhà xuất bản, ghi âm chống việc sao chép không được phép
(1971).
22. Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (1983).
23. Công ước UPOV về bảo hộ giống cây trồng mới (1961).
24. Công ước về việc bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của thế giới (1972).
25. Công ước về đa dạng sinh học (1992).
15