Nội dung text: Nhật ký mùa hạ
Tặng cha mẹ tôi và những người bạn đã song hành cùng tôi trong suốt hồi ức của
tuổi học trò. Nếu không có họ, cuốn sách này sẽ không ra đời.
Phần 1
con hãy xin lỗi đi
Mẹ bảo tôi sinh ra đã bướng bỉnh và hung hãn. Hồi hơn một tuổi, mới chỉ biết
ngồi chứ chưa biết đi, không biết tôi hư sao đó mà bà mắng tôi một trận.
- Con xin lỗi mẹ đi.
- Không. - Tôi lắc đầu.
Hơn chục lượt “Con xin lỗi mẹ đi” - “Không” thì bà điên tiết mang tôi tít ra
ngoài bãi bóng. Bà đặt tôi xuống đất.
- Bây giờ con xin lỗi mẹ đi rồi mẹ bế về, nếu không mẹ sẽ để con ở đây.
- Không.
- Xin lỗi mẹ đi.
- Bố. - Tôi mếu máo chỉ ra phía đường đê cầu cứu.
- Bố đi suốt ngày. Bố về đây mẹ sẽ đánh cho một trận.
- Không... Phải chiều... - Tôi lắp bắp.
- Không chiều gì hết. Cả bố cả con hư là mẹ đánh cho một trận. Nào, xin lỗi mẹ
đi.
- Không.
Lần này thì bà hết chịu nổi. Bà đứng phắt dậy rồi bỏ đi thật. Sân bóng rộng mênh
mông. Gió mùa hun hút thổi. Mùa đông không có ai ra sân tập nên tôi ngồi nhỏ thó
như một chấm bi giữa nền trời xám nhạt. Chừng rất lâu sau khi đã làm xong một vài
việc, bà mới quay lại đón tôi. Nhìn con gái ngồi tròn xoe im lặng như cục bông nhồi
giữa bãi bóng, bà quên hết những chuyện vừa rồi và muốn ôm chặt con vào lòng.
Nhưng vẫn cố giữ nét mặt thản nhiên, bà nghiêm giọng:
- Bây giờ con xin lỗi mẹ đi rồi mẹ bế về.
- Không. - Tôi ngước đôi mắt đen, hai gò má đã đỏ ửng vì lạnh.
- Xin lỗi mẹ đi nào. - Giọng bà hầu như đã chuyển sang năn nỉ.
- Không.
Tất nhiên nếu lúc ấy mẹ không nhượng bộ thì khéo cho đến giờ tôi vẫn ngồi ở
ngoài bãi bóng.
Bà kể đi kể lại câu chuyện này ngót vài chục lượt đến mức tôi phát thuộc lòng.
Có lần tôi tò mò hỏi về lý do tôi đã làm gì nên tội để khiến bà kiên quyết bắt tôi phải
xin lỗi. Bà nói tôi... vô số tội, và cái tội hôm đó như một giọt nước làm tràn li. Tỉ
như đang chơi vui trong công viên mà bà phải cho tôi về vì đã đến giờ cơm chiều thì
lập tức tôi phản đối bằng cách lăn xả vào mà cấu xé ngực áo mẹ. Tỉ như đang đứng
giữa sân ngắm chiếc máy bay bay qua bầu trời rồi thoắt cái đã không còn thấy nó
đâu nữa thì tôi khóc cả tiếng đồng hồ chỉ vì “Máy bay bay đi mất rồi”. Mẹ nhắc lại
câu chuyện này bằng giọng vẫn còn tức anh ách cho dù bao nhiêu năm đã trôi qua
“Nó lại bắt đền mình vì máy bay bay đi mất. Thế có vô lý không”. Tuy nhiên mẹ
cũng nói rằng tôi có lòng tự trọng từ năm... một tuổi. Lần nọ mẹ cho tôi sang nhà
ngoại chơi. Bà ngoại có một quầy bánh kẹo nho nhỏ. Mẹ con tôi ngồi trông hàng cho
bà đi chợ. Tôi lặng im nhìn những lọ thủy tinh đựng đủ loại bánh kẹo hấp dẫn, rồi
rất lâu sau, chừng như hết chịu đựng nổi, tôi ngước lên nhìn mẹ:
- Mẹ ơi, bánh kẹo này không phải của nhà mình đâu nhỉ.
Sau này, để bảo vệ lòng tự trọng và kiêu hãnh của mình thì tôi cũng khiến cho
mẹ phát khổn khổ. Đại loại như một lần đang chơi trong ngõ, tôi đùa cái Thư một
câu gì đó khiến nó nổi khùng lên vả tôi một cái. Ngay lập tức tôi rút chiếc guốc gỗ
sơn xanh đỏ định tấn công trở lại. Một đứa trẻ 10 tuổi dễ dàng tước chiếc guốc trong
tay đứa trẻ 5 tuổi. Tôi tức giận chạy về nhà tìm một loại vũ khí khác hữu dụng hơn.
Tôi vào bếp, nhìn thấy cây đòn gánh dùng để quẩy nước liền thốt lên thành tiếng
“Đây rồi”. Mẹ nhìn thấy tôi vác đòn gánh ra ngõ, nhất là nhìn vẻ mặt dữ tợn của tôi
liền thất kinh.
- Con vác đòn gánh đi đâu đấy?
Tôi không nói gì, vẫn hầm hầm tức giận lôi đòn gánh ra đầu ngõ. Mẹ vội vã đi
theo. Nhìn thấy tôi lao vào cái Thư, mẹ cuống quýt giằng đòn gánh lại rồi lôi tôi về
nhà. Lúc ấy tôi mới bật khóc gào lên “Mẹ lại bênh nó à”.
Ngõ 77 Đại Cồ Việt nhiều trẻ con, từ lít nhít 3, 4 tuổi đến cỡ 13, 14. Song dường
như chưa có đứa trẻ nào tránh được cuộc đụng độ với tôi. Và cha mẹ tôi phát
ngượng lên vì thi thoảng lại có một bậc phụ huynh lôi con mình đến trước cửa réo
con ông bà đánh con tôi bầm tím thế này. Tôi mới chừng 4, 5 tuổi và cái đứa “bầm
tím thế này” đôi khi còn lớn hơn cả tôi nữa. Nhìn những vết đỏ hằn năm đầu ngón
tay còn nguyên trên hai gò má bầu bĩnh trắng nõn của đứa bé, hàng xóm xúm đông
xúm đỏ xem rồi bình luận, rồi nhìn tôi bằng ánh mắt của người dân lương thiện nhìn
kẻ côn đồ. Cha tôi mẹ tôi cuống quýt xuýt xoa đứa trẻ hàng xóm rồi bắt tôi phải xin
lỗi bạn. Tất nhiên khi một tuổi tôi kiên quyết thà bị bỏ rơi chứ không chịu xin lỗi thì
năm tuổi sao có thể làm được việc ấy, cho dù bị cả xóm tẩy chay thì cũng thế thôi.
Cha mắng tôi một thôi một hồi, xoa vết đau cho đứa trẻ, xin lỗi những người hàng
xóm rồi tất cả giải tán ai về nhà nấy. Nhưng chỉ được vài hôm thì lịch sử lặp lại. Lại
lục tục có người dẫn con đến bắt đền.
Cũng có lần chính tôi cũng bị “bầm tím”. Ấy là khi tôi trêu chọc thằng Lộc hàng
xóm khiến nó điên tiết thụi cho tôi một phát vào cánh tay. Thế là chiến tranh nổ ra.
Thằng Lộc con ông bà Thường, da đen sì, người gày gò nhưng chắc nịch. Nó hơn tôi
hai tuổi, lại là con trai nên khỏe hơn rất nhiều. Tôi thua cuộc. Nhưng lần sau vẫn
không chừa, và có lẽ ở trong xóm ấy, kẻ mà tôi xích mích nhiều nhất là thằng Lộc vì
nó ở ngay sát vách nhà tôi. Chúng tôi gặp nhau hàng ngày, chơi với nhau hàng ngày
và cũng thụi nhau hàng ngày.
Những ngày đầu tiên vào lớp 1, tôi được xếp ngồi bàn hai, cạnh một thằng bé
trắng trẻo cũng lại tên là Lộc. Một bữa nọ, đang trong giờ tập viết, tôi hứng chí
ngoạch một gạch bút chì vào sách Tiếng Việt của thằng Lộc. Tức thì nó thụi một cái
vào cánh tay tôi đau điếng. Tôi thụi lại nó. Nó thụi lại tôi. Qua lại như thế đến vài
chục bận thì tôi chịu thua. Nắm đấm của nó mạnh hơn nắm đấm của tôi nhiều. Tôi
ứa nước mắt, không phải vì đau mà vì ấm ức không đánh lại được thằng Lộc. Tuy
nhiên cô Loan đã nhìn thấy vụ ẩu đả. Cô lại gần hỏi xem có chuyện gì. Thằng Lộc
gân cổ tố cáo “Bạn ấy vẽ bẩn vào sách của em”. Cô Loan cau mày:
- Vẽ vào sách của bạn là sai rồi, lại còn khóc nỗi gì.
Cũng giống như những người hàng xóm, cô Loan đương nhiên không đứng về
phía tôi. Người ta không quen nhìn thấy một đứa con gái nhỏ hành động như thế.
Ngay cả nếu thằng Lộc có sai, nó là kẻ đánh tôi trước cho dù tôi chẳng gây nên tội
lỗi gì thì tôi cũng phải ngồi im nhỏ lệ, hoặc chạy lên mách cô. Cô sẽ trừng phạt kẻ
có tội, rồi ôm tôi vào lòng an ủi. Đằng này tôi cũng thượng cẳng chân hạ cẳng tay
chẳng kém gì một thằng con trai gấu biển. Chưa kể tôi còn là kẻ trêu chọc trước. Tôi
luôn là kẻ trêu chọc trước.
Đây không phải chuyện đùa. Chúng tôi mới vào lớp 1, phải có nền nếp và giáo
dục, không thể cư xử hoang dã như những đứa trẻ lang thang được. Cô cần phải
chấn chỉnh ngay chuyện này để răn đe những trò khác. Cô nghiêm sắc mặt.
- Em xin lỗi bạn đi.
Tôi không thể nói “Không” như lúc còn ở nhà với mẹ, nên đành giữ im lặng, mặt
cúi gằm ngắm nhìn ngón chân cái đang di mãi trên nền đất.
- Em có lỗi, quay sang xin lỗi bạn đi.
Tôi vẫn im lặng. Cả lớp im lặng. Cuối cùng cô cũng im lặng tống cổ tôi ra góc
lớp bắt đứng úp mặt vào tường.
Tuần đầu tiên đi học lớp 1 tôi đã bị phạt đứng úp mặt vào tường vì tội gây gổ
đánh lộn và chống đối cô giáo. Tất nhiên mẹ tôi không biết câu chuyện không vui
ấy, nếu như tôi không viết lại trên giấy trắng mực đen này.
Những ngày đi học đầu tiên của tôi, không phải để học chữ, vì tôi đã có thể đọc
báo từ năm bốn tuổi rưỡi rồi kia, mà là để học cách xin lỗi, một điều tôi luôn cảm
thấy khó khăn khi phải mở lời... cho đến tận mãi mãi sau này.
đêm pháo hoa
Tối nay trên Bờ Hồ có bắn pháo hoa. Mẹ thông báo như thế từ sáng sớm. Đó là
ngày 2.9.1982. Cha đi vắng nên chiều hôm ấy mẹ nấu cơm sớm rồi đưa tôi lên hồ
Hoàn Kiếm. Tôi chưa được nhìn thấy pháo hoa bao giờ. Pháo hoa là những chùm li
ti rực rỡ lóe sáng trên nền trời đen thẫm. Còn pháo sáng to như chiếc bóng đèn. Nó
có màu xanh lá, đỏ cam và tím hoa cà. Sau mỗi tiếng nổ lại một chùm hoa cà hoa cải
bay lên bầu trời. Chúng nở xòe rồi thi nhau lao xuống mặt hồ như dường những
chấm sao có thể vụn ra trên tóc tôi. Những tiếng pháo dồn dập cuối cùng kết thúc
cũng là lúc các quầng sáng đan vào nhau huy hoàng chói lọi. Xung quanh tôi người
ta ồ lên thán phục. Tiếng pháo lác đác ngớt dần rồi lịm tắt. Những đốm sáng cuối
cùng còn leo lét cũng tắt hẳn trả lại bầu trời đêm tối mò như cũ. Đúng lúc ấy thì xảy
ra chuyện.
Những tiếng la hét nổi lên. Rồi người ta xô đẩy, chen lấn, thúc cùi chỏ để thoát
ra khỏi đám đông. Cái gì thế? Mẹ nhìn tôi bằng ánh mắt kinh ngạc. Bà vẫn bế tôi
trên tay, nhưng cánh tay siết chặt hơn như sợ tôi rơi mất. Người ở đâu ra mà lắm thế.
Thậm chí còn đông hơn cả lúc xem pháo hoa. Chúng tôi không thể vượt qua được
chỗ này. Mẹ tôi nhích dần từng bước. Người ta vẫn la hét như thế. Có vẻ như có
người bị chen đến bẹp ruột. Tiếng trẻ con khóc thảm thiết. Tiếng phụ nữ van xin thôi
đừng chèn ép. Tiếng mắng chửi. Tiếng quát lác. Tôi lắp bắp “Dép... dép”. Là đôi dép
lê tôi bị người ta quẹt vào chân sắp rơi đến nơi rồi.
- Thôi vứt dép đi. - Mẹ tôi rít lên.
Nhưng tôi tiếc đôi dép mới. Vẫn ngồi trên sườn mẹ, tôi vừa cúi xuống vừa giơ
chân lên để rút chiếc dép. Nghiêng từng bên một rồi cuối cùng cũng cầm được đôi
dép trên tay. Mới đầu chúng tôi đứng ở góc đường Hàng Khay, chỗ đối diện Bách
Hóa tổng hợp (nay là Tràng Tiền Plaza), loay hoay thế nào bị dồn tít lên tận đền Bà
Kiệu, kẹt cứng trong đám đông đến hàng tiếng đồng hồ, trong khi lẽ ra phải quay
hướng ngược lại để rẽ vào đường Bà Triệu hay phố Huế mới về đến nhà.
Tôi đã từng nhìn thấy cảnh đông người một lần rồi. Ấy là hôm cha tôi cho lên
Hàng Mã ngày Trung thu, người cũng chen cứng, nhưng không xô đẩy thế này. Ông
mua cho tôi cái trống rồi kiệu tôi lên cổ. Tôi ngồi chễm chệ trên ấy, an toàn và thoải
mái, vừa gõ trống vừa ngắm đoàn người đang rồng rắn bên dưới. Nhưng mẹ thì
không biết kiệu lên cổ. Mẹ chỉ biết bế cắp nách, và ghì rất chặt, sườn vẹo hẳn sang
một bên, vì rõ ràng chỉ cần mẹ sơ ý hoặc bị đẩy mạnh khiến tôi rơi xuống đất thì tôi
sẽ bị cả ngàn bàn chân giẫm đạp lên người. Mà mẹ đã bế tôi hơn tiếng đồng hồ rồi,
cánh tay bà có lẽ không thể trụ lâu hơn được nữa. Đám đông vẫn ào lên điên cuồng
và hỗn loạn. Không khí ngột ngạt, tù bức không thể chịu nổi. Mẹ tôi trở nên kinh
hoảng. Bà quay sang một người đàn ông trẻ mặc áo kẻ sọc vừa vượt lên bên cạnh và
nói bằng giọng van xin.
(hình 1)
- Chú ơi, chú thương mẹ con tôi. Chú đưa mẹ con tôi ra ngoài với...
Người đàn ông tốt bụng liền đỡ tôi từ tay mẹ rồi tiến lên trước mở đường, và chỉ
mươi phút sau đã dẫn mẹ tôi ra một khoảng trống. Không khí trong lành mát mẻ thổi
lên từ lòng hồ rười rượi.
- Ôi, cảm ơn chú. - Mẹ chỉ líu ríu được có thế rồi cuống cuồng bế tôi rẽ sang
hướng khác như thể đám đông điên cuồng kia lại sắp ào lên đến nơi.
Người dẫn đường của chúng tôi cũng lặng lẽ biến mất vào một con phố tối tăm
trong khu phố cổ. Lúc này bà mới nhìn sang tôi ngạc nhiên.
- Con vẫn còn dép cơ à?
Bà bế rịt tôi trên tay vì sợ rơi mất con gái, còn tôi giữ khư khư đôi dép nhựa vì
sợ rớt xuống thì mất dép. Mẹ tôi thì đã bị mất dép từ lâu. Lúc này bà đi chân trần.
Gấu quần phăng đen rộng thùng thình kéo lê trên nền đất.
Lúc chúng tôi ra đến phố Huế, có một người phụ nữ cũng đang cõng một thằng
bé trạc tuổi tôi. Thằng bé khắp người bẩn thỉu, lịm đi trên lưng mẹ nó. Mẹ tôi hốt
hoảng.
- Cháu có bị làm sao không chị?
Nhưng người mẹ kia dường như đang hoảng loạn. Bà ta cứ bước thẳng mà
không nói năng gì. Vẻ mặt của bà ấy khiến tôi kinh sợ. Không cần phải hỏi han
nhiều chúng tôi cũng hiểu rằng người đàn bà đã làm rớt con xuống đất trong lúc bị
dồn ép quá thể. Có lẽ rất nhiều đứa trẻ như thế trong đêm pháo hoa huy hoàng vừa
rồi.
Mãi khi về đến nhà mẹ tôi mới hoàn hồn. Bà cho rằng bọn đạo chích đã lợi dụng
đêm pháo hoa để dồn ép gây hoảng loạn nhằm móc ví tiền của khách đến xem.
Tôi không ấn tượng nhiều về cảnh tượng lộng lẫy của bầu trời pháo hoa đêm
hôm ấy, chỉ nhớ mãi nỗi hãi hùng trên mặt đất, và khuôn mặt của người đàn bà có
đứa con bị rơi xuống đất.
những buổi trưa hè
Nơi ở đầu tiên mà tôi từng nhìn thấy trong đời là một ngôi nhà lợp mái ngói,
cửa ra vào đã bị long bản lề, ban ngày cứ để mở thế, ban đêm bê cánh cửa che tạm
vào, coi như quy ước đấy là một barrier để người lạ cấm xâm nhập tư gia mà không
được phép. Hàng xóm xung quanh ngõ 77 Đại Cồ Việt đều như vậy, rất ít nhà có
cửa cho tử tế. Hoặc có cửa thì đêm họ cũng mở ra cho mát. Chẳng ai lo trộm. Nhà
tôi cũng không lo trộm. Chúng tôi chỉ có một tủ quần áo, ít chăn màn, xoong nồi,
chạn bát, thùng đựng gạo và thứ giá trị nhất trong nhà là hai tủ sách của cha tôi. Rất
nhiều sách. Cho dù chúng có in bằng giấy đen, mất bìa, thiếu trang, long gáy, xơ nát
thì vẫn cứ là có giá trị hơn chăn màn và xoong nồi. Giá trị với cha tôi chứ không giá
trị với trộm.
Nhưng rồi một đêm nọ, cả xóm nháo nhác lên vì có tiếng hô trộm. Trộm mò vào
nhà bà Thường. Không hiểu sao trộm lại mò vào nhà bà Thường. Bà Thường ở ngay
sát vách. Nhà bà nền đất chứ không lát đá hoa giống nhà tôi. Ông bà Thường có đến
gần chục người con nhưng nghèo nhất xóm. Đêm đến họ ngủ cả trong ngôi nhà lợp
giấy dầu bé tí tẹo. Trộm vào nhà tôi đã thấy thất vọng, chui vào nhà bà Thường dễ
chừng muốn khóc. Nhưng sáng hôm sau cả xóm quây lại để nghe bà Thường kể
chuyện trộm. Đấy là một “con trộm”, bà Thường bảo thế. “Con trộm” chít khăn
xanh, che gần kín mặt. Nó lò dò đi lại bên giường. Bà Thường giật mình tỉnh giấc
mới hét lên. “Con trộm” liền chạy mất. Mẹ tôi sợ lắm, bảo nếu mẹ mà nhìn thấy
trộm đi lại bên giường thế chắc không dám kêu. Tôi cũng sợ trộm, không phải sợ
trộm lấy đi đồ quý mà sợ nó chít khăn xanh đi đi lại lại bên giường trong bóng đêm.
Sau rồi cha tôi cũng lắp lại bản lề. Cửa ra vào đã có thể đóng lại được.
Ngôi nhà đầu tiên của tôi còn có cả một khu vườn phía sau. Ven bờ mương ngập
đầy bèo tây đã trồng sẵn một cây chuối và vài thứ cây dại. Còn trên bờ giậu ngăn
cách với nhà hàng xóm leo đầy râm bụt. Chỗ ấy mẹ tôi kê chiếc chuồng gà. Những
trưa mùa hè là thời khắc yên tĩnh và tuyệt vời nhất trong ngày. Khi ấy, mẹ tôi ngủ
trưa, cả xóm ngủ trưa, cả thành phố ngủ trưa, còn tôi tha thẩn một mình trong vườn.
Tôi có thể làm bất cứ điều gì mà không bị rầy la. Đầu tiên tôi tìm thấy một chiếc
đinh và loay hoay cố tìm cách đóng nó lên tường. Tôi dồn hết sức mình giáng búa
vào đinh. Được ba phát như thế thì đinh chuội ra khỏi lớp vữa tường, bàn tay cầm
đinh trở thành đích ngắm của búa. Tôi điếng người rơi cả đinh lẫn búa, đành ngồi
trên bậu cửa sụt sịt chịu đau. Nhưng cũng chỉ được một lúc, tôi lại tìm thấy một tảng
thịt heo trong bếp. Tôi chật vật lôi chiếc thớt gỗ nghiến nặng gần bằng người ra giữa
sân, đặt tảng thịt lên mặt thớt rồi dùng dao phay miệt mài băm thịt. Chừng nửa tiếng
sau mẹ tôi đã có món thịt băm trộn lẫn cả đất cát và mùn thớt. Có bận tôi bắc ba viên
gạch nhỏ làm ông đầu rau. Lại kiếm lá khô làm củi. Tôi thái nhỏ lá cây râm bụt cho
vào chiếc nồi đồ chơi bằng nhựa rồi chế thêm nước vào. Cuối cùng là bắc bếp, nổi
lửa. Tôi ngồi nhìn lửa bắt lá khô nỏ cháy đùng đùng và kinh ngạc khi thấy chiếc nồi
nhựa trong nháy mắt đã tan chảy vào trong đống lửa. Mất chiếc nồi, tôi lại tìm được
một thứ khác để giải trí cho hết buổi trưa.
Một trưa mùa hạ năm 1983, mẹ tôi chạy đi đâu đó trong xóm. Tôi lại một mình
trong khu vườn sát bờ mương. Đang loay hoay thái lá cây cho vào nồi nấu canh, đột
nhiên tôi thấy đất dưới chân mình chao đảo, cả tôi nữa, cũng chao đảo, như thể đang
lơ lửng trong không khí. Tôi quẳng cả nồi lẫn ông đầu rau giữa sân rồi vội vã chui
tọt lên giường nằm đắp chăn bông trong lúc trời còn đang nóng đến phát sốt. Tôi
nghĩ tôi bị ốm. Ốm thì phải đắp chăn. Nhưng lại nghĩ những lần trước tôi ốm không
giống như thế này. Đây là một cảm giác kỳ lạ chưa từng gặp bao giờ. Ngay cả khi
đang nằm trong chăn bông, cái giường dưới lưng tôi cũng đung đưa như một chiếc
thuyền. Tôi nghĩ mình sắp chết.
Mãi lâu sau mẹ mới chạy về. Nhìn thấy tôi nằm đắp chăn bông giữa trời nóng
nực, bà nghĩ rằng đó lại là một trò chơi mới của tôi.
- Vừa động đất đấy con ạ.
Động đất? Chiếc giường và mặt đất đã không còn lúc lắc nữa. Giờ tôi chỉ thấy
khắp mình toát mồ hôi như lúc chui vào chăn xông nước lá sau kỳ lên sởi.
Ngày hôm đó cả xóm bàn tán ồn ã về vụ động đất. Có người nói động đất làm đổ
sập cả một khu tập thể năm tầng.
Nhưng kể từ đó cho đến giờ, tôi chưa thấy mặt đất ở thành phố này rung chuyển
thêm lần nào nữa 0 .
0
Năm 1983, trận động đất ở Đông bắc Tuần Giáo (Lai Châu) có cường độ 6,8 độ richter đã
khiến Hà Nội rung chấn lên cấp 6
món bánh caramen
Suốt những năm tháng rất dài, món ăn yêu thích nhất của tôi luôn là bánh
caramen. Mẹ tôi có thể làm loại bánh này. Nếu không thế, những năm đầu thập niên
80 cũng khó tìm thấy một cửa hàng bán thứ đồ dessert ngon và sang trọng nhường
ấy. Mẹ biết làm nhiều món ăn độc đáo vì thời Pháp, bà ngoại tôi có một cửa hàng ăn
và ông ngoại là người nếu không sành ăn nhất thì cũng nhì, không nhì thì... cũng ba
ở đất Hà thành. Vì thế món bánh caramen có tính gia truyền, làm nó khá cầu kỳ,
nhưng nguyên liệu thì đơn giản, chỉ cần sữa đặc, trứng gà và đường kính. Có vậy
thôi nhưng chẳng mấy khi tôi được ăn caramen. Chúng tôi luôn luôn không đủ
nguyên liệu. Một sáng nọ, mẹ bảo tôi.
- Hôm nay mẹ làm bánh caramen.
Cả ngày hôm ấy lòng tôi dậy lên một niềm vui âm ỉ. Từ sáng đến chiều nước
miếng ứa ra liên tục trong miệng tôi. Vui chán rồi lại đâm lo. Nhỡ đâu chiều nay nhà
tôi có khách. Họ sẽ đến đúng lúc mẹ đang làm bánh caramen và chúng tôi không thể
không đem bánh ra đãi họ. Rồi ai thì cũng thích caramen cả. Họ cho rằng trẻ con 5
tuổi chẳng nên ăn nhiều đồ ngọt. Họ sẽ ăn hết bánh của tôi mất.
Sau bữa cơm trưa, mẹ bắt đầu túc tắc chuẩn bị nguyên liệu. Chúng tôi có một
quả trứng gà, một ít sữa đặc ông Thọ dính ở đáy hộp. Vậy là đủ để làm bánh. Đầu
tiên mẹ sẽ hớt lòng đỏ, đánh tan thật bông lên như kem. Sau đó pha nước sôi với
sữa. Mẹ trưng nước hàng đổ xuống đáy nắp phích, rồi sau rốt trộn kem trứng với sữa
đổ lên trên. Cái nắp phích ấy sau khi hấp cách thủy sẽ thành món bánh caramen có
khuôn hình tròn. Bánh được đặt trong tủ lạnh vài giờ rồi đổ ra đĩa một cách dễ dàng.
Giờ sẽ là chiếc bánh thơm ngậy vị sữa, thơm bùi vị trứng gà và thơm lựng vị đường
trưng hơi đắng. Nó còn có hai tầng màu vàng và nâu sẫm rất đẹp mắt. Ngắm mãi thì
thật thèm mà ăn thì thật tiếc. Nhà không có tủ lạnh nên tôi không được ăn bánh
caramen ướp lạnh bao giờ, nhưng cho dù có tủ lạnh thì tôi cũng khó lòng mà đợi
được đến lúc ấy. Tôi luôn ăn caramen nóng hôi hổi, vừa ăn vừa thổi phù phù. Mẹ
bảo chỗ nguyên liệu này chỉ đủ làm hai chiếc caramen nhỏ, nhưng mẹ sẽ nhường
cho tôi cả hai.
Mẹ bắt đầu đánh tan kem trứng rồi đổ tất cả vào lon sữa bò, lại đánh tiếp cho
trứng sữa quyện với nhau thật kỹ. Xem mẹ làm bánh cũng đem lại niềm vui sướng
có lẽ chỉ kém lúc ăn bánh một chút thôi. Tôi nhảy chân sáo xung quanh mặc cho mẹ
phàn nàn rằng tôi nên ngồi yên một chỗ, rồi sẽ nhanh có bánh, đi đi lại lại thế mẹ sốt
ruột lắm.
(Hình 2)
Trộn trứng sữa xong, mẹ để lon sữa bò sang một bên để pha đường trưng. Thế là
xong một nửa công đoạn rồi. Giờ chỉ còn đổ bánh vào hấp cách thủy nữa thôi. Tôi
vẫn lượn như đèn cù, miệng lặp đi lặp lại một câu duy nhất.
- Bánh sắp được chưa hả mẹ? Bánh sắp được chưa hả mẹ?
Bạn đã bao giờ nghe nhắc đến cụm từ “Bước chân định mệnh” chưa? Những
bước chân định mệnh luôn xuất hiện đúng vào lúc khó ngờ nhất, ngay cả khi chúng
ta chẳng hề mong chờ nó. Trong lúc phấn khích vì bị dạ dày kích động, cái cẳng
chân quen thuộc của tôi đã sút trúng vào lon sữa bò khiến nó đổ lăn kềnh. Trứng sữa
thi nhau nối đuôi bò ra giữa sàn theo hình dáng một vũng nước. Tôi đứng khựng lại
như tức thì bị hóa đá. Mẹ phát vào mông tôi rõ đau và mắng vài câu gì đó mà tôi
không thể nghe rõ nữa. Khuôn mặt tôi lúc ấy người ta có thể dùng được nhiều từ để
miêu tả: thộn mặt, thuỗn mặt, ngẩn mặt, đần mặt hay nghệt mặt. Chọn cách nào cũng
phù hợp cả.
Mẹ đứng lên đi tìm giẻ lau để thu dọn món bánh caramen. Vừa dọn mẹ vừa lẩm
bẩm.
- Thôi, mất ăn.
Câu này thực còn đau hơn cái phát mông vừa rồi.
Đã nhiều năm trôi qua và mỗi lần ăn một chiếc bánh caramen, không khi nào tôi
thôi không nhớ lại lon sữa bò bị đá lăn lông lốc lúc ấy. Và cũng chưa khi nào tôi
thấy người ta làm bánh ngoài tiệm ngon hơn mẹ làm cho tôi trong một chiếc nắp
phích đã ngả màu.
đồng tiền vàng
Ở trong xóm, đứa trẻ giàu có nhất là cái Thanh con nhà chú Hồng. Nó giàu có vì
trong khi tất cả chúng tôi mặc quần chữa lại từ quần áo cũ của người lớn thì nó được
mặc váy. Trong khi món quà vặt ngon nhất đời của chúng tôi là nước pha với đường
kính thì nó có hẳn một chiếc kẹo cao su. Hôm đó nó kiêu hãnh nhai kẹo cao su trước
một đám trẻ con xúm đông xúm đỏ xung quanh. Ngần ấy con mắt dán vào đôi môi
mỏng dính của cái Thanh mà trong ấy rõ ràng có một chiếc kẹo rất thần kỳ, chỉ có
thể nhai mà không được nuốt.
- Nó như thế nào, có dai không? - Thằng Lộc hỏi.
- Không, mềm lắm, rất ngon. - Cái Thanh vừa đung đưa hai bên hàm vừa lúng
búng trả lời.
- Kẹo có vị gì? - Cái Hà tròn mắt hỏi. Cái Hà là cháu gọi tôi bằng cô, vì cha tôi
gọi ông nội nó bằng anh. Chúng tôi vừa là hàng xóm vừa là những người họ hàng
xa.
(Hình 3)
- Thơm mùi bạc hà, lại cay cay nữa.
- Lỡ nuốt vào bụng thì làm sao?
- Thì chết người đấy, bụng sẽ nổ tung ra.
Tôi lắc đầu quay đi vẻ chán nản.
- Nhai thế thì mỏi miệng chết.
- Ừ, chả thích... Thà uống nước đường thì đỡ phải nhai, lại còn nuốt được.
Những đứa khác phụ họa trong khi mắt vẫn không rời khỏi chiếc kẹo cao su
đang được nhai nhịp nhàng bởi hàm răng thưa đáng ghét. Kỳ thực trước đó chúng tôi
đã yêu cầu cái Thanh chuyển kẹo cho chúng tôi nhai thử một tí nhưng nó từ chối.
Lát sau chừng như đã chán nhai kẹo, nó dính chiếc kẹo vào thân cột trước cửa nhà
cái Thư rồi bỏ về. Chúng tôi cũng tản đi sau một hồi xem nó nhai kẹo. Nhưng rồi tôi
chợt nhận ra cái Chi lén rứt một ít kẹo đang dính chặt lên thân cột rồi... bỏ vào
miệng nhai.
Một tối mùa đông, mẹ cho tôi đi theo đến nhà bác Tiến bạn thân của cha để bàn
một công chuyện gì đó. Trước khi mẹ con tôi ra về, bác Tiến chợt nhớ ra điều gì.
Bác vào nhà trong rồi quay trở ra đưa cho tôi một thanh kẹo, chỉ một thanh thôi. Nó
nhỏ xíu và mỏng dính, có vỏ bọc màu xanh lá, hai đầu thòi ra lớp giấy bạc gói bên
trong. Tất nhiên tôi nhận ra đó là thanh kẹo cao su thần kỳ mà cái Thanh từng làm
cho lũ chúng tôi nhỏ dãi vì chết thèm. Tôi nhét thanh kẹo vào túi áo rét. Trên đường
về thỉnh thoảng lại thò tay vào túi kiểm tra xem nhỡ đâu nó có rơi mất. Sau thấy vẫn
chưa yên tâm, tôi để tay hẳn trong túi cho đến tận khi về đến nhà.
Tối hôm ấy đi ngủ, tôi đặt chiếc kẹo trước mũi và hít hà mùi thơm của nó. Kẹo
này là kẹo quý, không thể một lúc mà ăn hết được. Sáng hôm sau, tôi bắt đầu ăn
mẩu kẹo đầu tiên. Tôi cẩn thận bóc lớp giấy bọc ngoài rồi bẻ một mẩu bé bằng đầu
ngón tay út cho vào miệng. Kẹo ngọt và cay, nhưng chỉ được vài phút là đã nhạt
thếch. Chẳng ngon như tôi tưởng, lại còn không được nuốt, nhưng rất thú vị. Nó thú
vị vì tôi là đứa trẻ thứ hai trong xóm được ăn kẹo cao su. Tôi gói phần kẹo còn lại
vào trong giấy bạc rồi cứ thế ăn dè đến tận cuối ngày. Mỗi lần chỉ bẻ một miếng tí
xíu.
Một thời gian sau, cha tôi thỉnh thoảng lại vào miền Nam. Mỗi lần trở ra ông
xách theo một con gà trống, vài sọt nho tươi, nhiều quần áo người lớn trẻ con và
khăn bông bay. Rất đông người đến nhà tôi chọn mua những thứ ấy. Mẹ mang nho
ra chợ sang lại cho các cửa hàng bán lẻ, còn đâu mẹ ngâm rượu và tặng hàng xóm
mỗi nhà một ít. Trước đó tôi cũng đã từng được ăn nho một lần. Ấy là bận tôi bị sốt
cao, khắp người nóng hầm hập. Mẹ mua cho tôi vài quả nho rụng, rửa sạch rồi cho
vào chiếc nắp phích để đầu giường. Cổ họng tôi khô khốc, nóng gắt và quả nho thì
trở nên mát lịm, ngon ngọt tuyệt vời. Tôi không thể ăn gì nhưng đã chén sạch cái
nắp phích đựng nho. Giờ nho đựng trong sọt. Dễ có đến vài yến nho xếp ở góc nhà.
Thật lạ lùng, nhìn những sọt nho tím ngắt ấy tôi đã không còn cảm giác thèm nho
nữa. Mẹ bảo tôi mang một đĩa nho sang biếu bà Thường. Tôi bê đĩa nho trên tay,
trịnh trọng như sứ thần ôm báu vật, kiêu hãnh vì biết rõ giá trị đang nằm trên cái đĩa
này.
Vừa nhìn thấy tôi và đĩa nho xuất hiện ở bậu cửa, thằng Lộc đang nằm khểnh
trên chiếc giường xi măng ba hoa gì đó vội ngồi bật dậy. Mắt nó dán vào chiếc đĩa.
Nhà bà Thường nhộn nhịp hẳn lên. Họ cảm ơn tôi rối rít, rồi nhờ tôi chuyển lời cảm
ơn bố mẹ.
Rồi lại sau một chuyến đi Nam, cha có vài thứ đặc biệt cho tôi. Đấy là một bộ đồ
hàng có đầy đủ xoong chảo, mâm, bát, ba đôi đũa, môi múc canh... Tất cả đều được
làm bằng gang. Đó là một bộ đồ hàng độc nhất vô nhị, đẹp chưa từng thấy. Lại thêm
cả một túi kẹo đủ vị, bên trong mỗi chiếc kẹo có một chiếc nhẫn bằng nhựa nhiều
màu sắc. Một ngày tôi cố gắng chén hết vài chục cái kẹo để còn lấy nhẫn. Những
món đồ quý hóa của tôi được trẻ con cả xóm chiêm ngưỡng và ghen tị. Không còn
nghi ngờ gì nữa, tôi đã trở thành một đứa trẻ giàu có nhất xóm.
Nhưng một ngày nọ, tôi nhìn thấy một vật kỳ lạ thuộc sở hữu của cái Thanh. Nó
gọi đấy là đồng tiền vàng. Đồng tiền vàng tròn xoe lấp lánh, trên rập nổi hình mặt
người, cành lá (ô liu) và cả một dòng chữ viền theo vòng tròn. Nhưng bên trong nó
là kẹo sôcôla. Đồng tiền vàng thì tôi biết. Lão chủ rạp múa rối Caraba Baraba đã cho
Buratino 5 đồng tiền vàng thay vì đốt cậu bé gỗ để nướng chín con thỏ và hai con
gà. Cũng chỉ vì những đồng tiền vàng mà Buratino bị cáo Alisa thọt chân và mèo
Badilio mù dở lừa hết lần này đến lần khác. Nhưng sôcôla thì tôi chưa nghe nói đến
bao giờ. Đồng tiền vàng đã quý, sôcôla lại được bọc bằng đồng tiền vàng thì còn
quý hơn. Tôi cứ chờ mãi cái Thanh bóc vỏ ngoài của đồng tiền vàng ra để xem
sôcôla là cái thứ gì nhưng nó bảo nó cứ để thế chơi thôi chứ không ăn. Vì sôcôla nó
ăn mãi rồi. Ngon tuyệt. Vừa ngọt vừa béo vừa thơm nức vị... sôcôla. Nhưng ngon
mấy thì ngon, ăn mãi rồi cũng chán. Giờ nó giữ đồng tiền vàng này để làm đồ chơi.
Nó có cho tôi cầm thử đồng tiền vàng một tí. Đồng tiền vàng thật đẹp, thật xứng
đáng là đồng tiền vàng. Cái Thanh bảo người ta mang ở nước ngoài về cho nó, chứ ở
Việt Nam không có thứ đồ quý này.
Bạn có bao giờ giống như tôi, luôn liên tưởng đồng tiền vàng với những câu
chuyện cổ tích ly kỳ?
Và một sáng đầu đông lạnh giá, tôi đã gặp câu chuyện kỳ lạ có thật. Ấy là ngay
khi vừa thức dậy, khi vừa cựa mình để chuẩn bị tụt xuống giường, tôi thấy từ ngực
áo rơi ra một đồng tiền vàng. Tôi mặc một áo len bên ngoài chiếc sơ mi lót trong, và
đồng tiền vàng này kẹp giữa lớp áo len và áo sơ mi. Ôi, lão Caraba Baraba nhét tiền
vàng vào ngực áo cho tôi hay sao? Nhưng Buratino còn vô tình biết được bí mật của
chiếc chìa khóa vàng chứ, tôi thì có thứ gì cho lão ngoài một bộ đồ hàng bằng gang
và dăm chiếc nhẫn nhựa cứng?
- Mẹ ơi, con có đồng tiền vàng. - Tôi hét lên, tay giơ cao đồng tiền vàng lấp
lánh.
- Ừ. - Mẹ gật đầu không mấy ngạc nhiên. - Tối hôm qua bác Hiền đến nhà chơi.
Bác mới đi Ba Lan về có mang cho con chiếc kẹo. Lúc ấy con ngủ rồi nên mẹ nhét
vào đấy.
Thì ra là thế, bác Hiền chứ không phải lão tiến sĩ khoa múa rối có bộ râu xồm
dài quét đất Caraba Baraba. Và tôi cũng giống cái Thanh, cứ giữ mãi đồng tiền vàng
để làm đồ chơi, mặc dù tôi chưa được nếm thử sôcôla bao giờ.
chuỗi hạt xoàn của bà ngoại
Ông ngoại mất khi tôi còn nhỏ xíu. Lúc ấy mẹ bế tôi trên tay nhưng tôi vẫn nhớ
rõ như in hình ảnh ông nằm bất động trên giường. Tôi khóc òa lên, khóc vì nhìn thấy
một người họ hàng đứng đằng sau le lưỡi trêu dọa chứ không phải khóc vì ông ngoại
mất. Một đứa trẻ hai tuổi chưa có khái niệm về sự mất mát. Tuy nhiên mọi người
đều xuýt xoa “Con bé ngoan chưa kìa, thương ông nên khóc đấy.” Cuối cùng tôi chỉ
còn bà ngoại. Phần nhiều hồi ức của tôi là về quãng thời gian ngắn ngủi được gặp
bà.
Bà ngoại tôi là một “bà ngoại điển hình”, nghĩa là với chiếc áo bà ba trắng, quần
đen, dáng người hơi mập, mái tóc bạc trắng như cước, hàm răng nhuộm đen và
khuôn mặt già nua phúc hậu thì ngay cả khi chưa cần miêu tả, một cậu trẻ nít cũng
đã có thể hình dung mà vẽ ra chân dung Bà ngoại. Bà ít nói. Hầu như bà chẳng nói
chuyện với tôi bao giờ, suốt ngày chỉ lụi cụi khâu vá và làm việc nọ việc kia. Nhưng
bà rất chiều tôi, như phần đông những người bà khác hay chiều cháu ngoại. Chiều
đến nỗi phát hư. Trẻ con và các động vật cảnh giống nhau một điểm rằng hễ nhận ra
người nào có thể bắt nạt được là bắt nạt ngay. Mà chúng cảm nhận được điều đó rất
nhanh, có lẽ chỉ sau vài giây đầu tiếp xúc với một người nào đó. Tôi cũng vậy,
không nhớ từ lúc nào tôi lờ mờ cảm thấy rằng mình có thể bắt nạt được bà ngoại,
nhưng rõ ràng là tôi cứ hay đòi hỏi bà điều nọ điều kia, lại còn chẳng sợ bà. Bà ở với
con trai cả là bác Ngọc, nhà bác ngay gần lớp học nên buổi sáng mẹ hay đưa tôi qua
đó chơi rồi sau bữa trưa bà sẽ dẫn tôi ra lớp. Hôm ấy cũng vậy, cả buổi sáng tôi chơi
với lũ trẻ hàng xóm, còn bà lại lụi cụi ngồi vá cho tôi chiếc ô xanh lá cây có viền
hoa nhỏ xíu. Đầu giờ chiều bà nhắc “Đến giờ đi học rồi cháu.” Đang chơi vui, tôi
nói với lại mà không nhìn bà.
- Hôm nay cháu được nghỉ học.
- Sao lại thế? - Bà dừng tay ngạc nhiên. - Thế sao mẹ đưa cháu lên đây?
- Mẹ bảo cháu lên đây chơi với bà cho mẹ còn làm việc. Cháu được nghỉ học ở
nhà không ai chơi với cháu. - Tôi liến thoắng một hồi rồi chạy vụt đi.
- Thế à?
Bà lại yên tâm cúi xuống vá tiếp vài vết rách. Tôi chơi thỏa thích đến chiều,
chẳng mảy may nghĩ gì đến bài vở trường lớp. Nhưng giữa buổi mẹ đã xuất hiện.
Mẹ ngạc nhiên khi thấy tôi đang nhảy nhót mặt đỏ lựng trên vỉa hè. Rồi mẹ cau mày.
- Sao bà lại không đưa cháu đi học?
- Nó nói hôm nay được nghỉ học mà. - Bà ngơ ngác.
- Nghỉ học thì con đưa nó đến đây làm gì. Sao bà lại đi nghe lời nó? - Mẹ cáu
kỉnh nhưng không phải cáu tôi mà cáu vì bà đã ngần ấy tuổi rồi lại còn để một đứa
trẻ 6 tuổi lừa.
- Thế mà nó lại bảo tôi là hôm nay được nghỉ học đấy. - Bà làu bàu như người có
lỗi rồi nhìn tôi bằng ánh mắt buồn bực.
Còn tôi vẫn nhênh nháo nhìn bà chẳng sợ hãi rồi nhảy chân sáo đi chơi tiếp.
Bà cũng hay đến nhà các con gái để làm giúp việc này việc kia. Tôi lờ mờ cảm
thấy bà thương mẹ tôi hơn những người con khác. Là tôi đoán thế vì hay thấy bà
nhặt nhạnh mỗi nhà một tí rồi mang đến cho mẹ con tôi. Bà đến chơi, khi thì cho củ
khoai lấy từ nhà bác Ngọc, khi thì mấy mẩu vải vụn tìm được trong đống vải thừa
nhà bác Yến. Bà cắt những mẩu vải ca rô ấy thành hình vuông rồi vắt sổ hoặc khâu
viền bốn cạnh cho tôi làm khăn mùi xoa. Từ khăn mùi xoa ấy lại gấp được ra con
búp bê bằng vải. Ba con búp bê vải nằm sắp hàng trong giỏ tre thành nhà trẻ, mà tôi
là cô giáo, bà là phụ huynh. Lần nào bà cũng có quà. Tôi đâm thành thói quen, cứ
nhìn thấy bà từ cửa ngõ là đã hò hét vui sướng rồi lôi chiếc túi da nâu cũ kỹ của bà
ra lục lọi. Trong ấy luôn có đủ thứ kim chỉ và hàng trăm món đồ lặt vặt vô cùng thú
vị.
(Hình 4)
Hôm ấy bà không có quà. Tôi lục mãi, vọc tay xuống tận đáy mà vẫn chỉ thấy
kim kim chỉ chỉ. Cha tôi nhìn thấy hành vi bất nhã ấy của con gái tức thì nổi cơn lôi
đình. Ông mắng tôi một thôi một hồi vì cái tội thấy bà ngoại đến chưa chào hỏi đã
vội lục lục lọi lọi. Mà lục lọi là một tính rất xấu. Đồ của ai phải để yên đấy không
được đụng vào, kể cả của người rất thân.
- Dạy nó bao nhiêu lần rồi mà vẫn cứ thế. - Cha vừa mắng tôi vừa liếc mắt nhìn
bà như thanh minh.
Bà vẫn cứ im im như từ lúc tôi mở mắt lọt lòng đã thấy bà như thế, chẳng bênh
tôi một lời nào. Thực ra tôi chưa bị mắng mỏ vì tội lục đồ của người khác bao giờ. Ở
nhà tôi vẫn lục lọi khối. Lục lọi gầm giường. Lục lọi máy khâu. Lục lọi chạn bát.
Lục lọi tủ quần áo. Lục lọi khắp các xó xỉnh trong vườn, từ gốc cây chuối ngoài bờ
mương cho đến chuồng gà sát bờ giậu. Tất cả những thứ ấy có phải của tôi đâu. Đồ
của tôi chỉ thu lu một giỏ đồ chơi biết hết cả rồi đâu còn gì đáng lục. Lục lọi những
thứ chưa biết mới thực là thú vị. Mà những thứ chưa biết ấy lại thường không phải
của mình. Nhưng cái túi da nâu cũ kỹ của bà thì cũng coi như của tôi chứ. Cái gì bà
chẳng cho tôi. Tôi có muốn xin cả cái túi ấy bà cũng cho. Chẳng bị mắng vì tội lục
lọi túi bà bao giờ (cũng là vì cha tôi đi tối ngày nên chưa bao giờ được chứng kiến
cảnh mà ông cho rằng không mấy đẹp mắt ấy), hôm nay lại bị mắng trước mặt người
mình hay bắt nạt. Xấu hổ quá. Tôi xịu mặt. Tôi rơm rớm nước mắt vì ấm ức. Chả
hiểu đâu nguồn cơn lại như thế. Chỉ tại bà xuất hiện nên mới ra nông nỗi bị mắng
thế này.
Tôi dỗi, đứng im thít bên bậu cửa thông ra vườn. Lưng tựa vào mặt gỗ rồi hai
chân nhịp nhịp bên nọ bên kia như đang bận rộn lắm với việc cọ cửa. Bà không nói
gì, lẳng lặng đi nhặt rau, nhặt xong lại ra vườn làm các việc lặt vặt. Lát sau bà quay
lại. Cái bậc cửa rất cao mà chân bà thì đau, việc bước lên bước xuống là cả một nỗ
lực. Bà đứng ngoài bảo đứa cháu ngoại đang bận rộn với việc cọ cửa bằng lưng áo.
- Lấy hộ bà rổ rau.
Tôi vênh váo quay phắt lên trần nhà.
- Rau... - Bà nói nhỏ xíu hầu chỉ mình bà nghe thấy, tay bà chỉ rổ rau, mắt nhìn
tôi chờ đợi sự giúp đỡ.
- Kìa, lấy cho bà rổ rau. - Cha tôi lại nổi khùng lên trước đứa con gái cứng đầu.
- Thôi thôi, để tôi lấy. - Bà lập cập vịn tay vào thành cửa rồi khó khăn lắm mới
nhấc được chân phải lên trước.
- Sao càng ngày nó lại càng khó bảo đến thế chứ. - Cha tôi lẩm bẩm, vẫn chưa
thôi tức giận.
Món quà cuối cùng của bà là một chuỗi hạt. Hôm đó bà xuất hiện với khuôn mặt
đỏ lựng mồ hôi nhưng cực kỳ vui vẻ. Bà kể rằng bà đang đi bộ trên đường Nam Bộ0
đúng khi tàu chạy qua. Người ta buôn hàng từ Nam ra Bắc, đến đó nhảy tàu, quăng
hàng xuống chắc là để trốn thuế, trốn vé chi đó. Lúc ấy có một túi hàng bị thủng vì
quăng ra quá mạnh. “Mấy cái hạt này cứ thế văng ra, tôi nhặt về cho cái Tí Con xâu
chuỗi hạt”. Bà lôi từ trong túi một nắm hạt nhựa tròn gói trong khăn mùi xoa. Tôi
thích chí lắm. Tôi hớn hở nhảy nhót xung quanh giục bà lấy kim chỉ xâu hạt cho tôi,
mặc cho mẹ cằn nhằn “Để yên cho bà còn nghỉ ngơi uống nước cái đã.” Nhưng bà
không nghỉ ngơi, từ lúc gặp bà ở trên đời, tôi chưa khi nào thấy bà nghỉ ngơi cả. Bà
xuyên chỉ vào kim để xâu hạt cho tôi. Xâu xong bà vòng lên cổ tôi buộc cố định hai
đầu lại.
Tôi chưa bao giờ có thứ đồ trang sức đẹp đến thế này. Tôi gọi đó là hạt xoàn.
Những hạt đen nhánh tròn trịa bao quanh cổ tôi thật xinh xắn, cho dù chúng trơn
nhẵn bề mặt chứ chẳng óng ánh tẹo nào. Chuỗi hạt không có móc cài nên tôi cứ đeo
mãi như thế chẳng thể cởi ra được, mà tôi cũng không đời nào muốn cởi ra.
Bẵng đi một dạo không thấy bà đến chơi nữa. Mẹ bảo rằng bà đang về quê. Rồi
bỗng một tối nọ, có một người lạ mặt đến tìm mẹ tôi. Ông ta không vào nhà, chỉ nói
ngắn gọn vài điều gì đó qua song cửa rồi bỏ đi mất. Lúc quay vào, tôi thấy mặt mẹ
méo đi, mắt mẹ ứa nước, giọng mẹ nghẹn lại.
- Bà mất rồi con ạ.
Tôi ngơ ngác. Nhưng tôi chẳng khóc. Tôi chỉ nhìn mẹ trân trối. Tôi hiểu từ
“mất” nghĩa là “chết”, “chết” nghĩa là tôi không bao giờ còn gặp lại bà nữa. Tôi
0
Nay là đường Lê Duẩn
chưa hình dung được ra điều ấy. Tôi chưa hình dung được cảm giác mãi mãi không
bao giờ còn có thể gặp lại một người đã vô cùng thân thiết có nghĩa là thế nào.
Người ta bảo bà mất ở quê. Bà bị ngã, rồi cứ thế ngủ yên vĩnh viễn. Người ta an
ủi mẹ tôi rằng âu như thế cũng là hạnh phúc. Bà ra đi khi đang về chơi nhà, tất cả chỉ
diễn ra trong một khoảnh khắc, chẳng chút gì đau đớn. Nhưng dường như điều đó
chẳng làm dịu đi nỗi đau đớn của mẹ tôi tẹo nào. Mẹ buồn phiền rằng bà ra đi mà
chẳng được gặp các con, chẳng được nhìn thấy ai bên cạnh trong giây phút cuối
cùng, lại còn bị ngã rất đau nữa. Rồi mẹ cằn nhằn như thể bà đang còn ngồi trước
mặt rằng tất cả cũng chỉ tại bà cứ không chịu ngồi yên một chỗ, đang yên đang lành
lại về quê làm chi.
Rất lâu sau khi bà mất, tôi cũng không hề khóc. Thỉnh thoảng quên mất tôi vẫn
cứ ngóng mãi ra cửa chờ bà đến mang theo chiếc túi da nâu cũ kỹ quen thuộc. Nếu
tôi gặp lại bà bây giờ, tôi sẽ không bắt nạt bà nữa. Chắc chắn thế. Bà có bảo tôi lấy
hộ bà thêm chục rổ rau, trăm rổ rau, nghìn rổ rau, ức vạn rổ rau nữa tôi cũng lấy.
Một hôm rất xa sau ngày bà mất, mẹ dẫn tôi ra chợ. Trên đường về, sợi chỉ xâu
chuỗi hạt có lẽ lâu ngày mủn quá nên vừa mắc phải thứ gì đó đã chợt đứt tung ra.
Lúc ấy đang là giữa trưa, nắng lên quá đỉnh đầu chói chang nhói bức. Những hạt
nhựa màu đen văng tung tóe trên nền đất rát bỏng. Tôi vội vàng ngồi sụp xuống nhặt
từng hạt. Mẹ tôi thốt lên.
- Thôi con ạ.
- Không, đây là chuỗi hạt xoàn của bà. - Tôi vẫn cắm cúi nhặt mà không ngước
nhìn mẹ.
Giờ thì tôi đã biết cảm giác cúi nhặt từng hạt giữa trời gay gắt khi bà vui mừng
nhìn thấy những hạt nhựa văng ra từ túi hàng buôn lậu bên đường ray tàu hỏa.
Mẹ đành kiên nhẫn đứng đợi tôi bên vỉa hè nắng cháy. Tôi bò tới lui trên nền đất
cho đến khi chắc chắn không còn hạt nào sót lại lẫn trong đám cát sỏi. Tôi đứng lên,
một tay nắm lấy bàn tay mẹ, tay kia vẫn nắm chặt những hạt xoàn nhỏ xíu của bà
ngoại, như sợ đâu nó sẽ rơi lần nữa và biến mất vĩnh viễn vào lòng đất lạnh lẽo kia.
đường về nhà
Lên lớp 2 tôi mới được chuyển về trường chính. Trường tiểu học Tây Sơn rất
hẹp. Sân trường nhỏ tí xíu. Giờ ra chơi cả sân mù mịt một màn bụi. Bụi chui vào
mắt, vào mũi, vào những cái miệng đang cười đùa, hò hét. Bụi bám vào những que
kem, miếng sấu dầm mua cuống cuồng qua song sắt cổng trường. Bụi phủ đen bờ
những ống chân thoăn thoắt nhảy dây, đá cầu. Mẹ bảo rằng trước đây trường là một
tòa biệt thự. Sau ngày giải phóng, các biệt thự của những gia đình tư sản giàu có bị
thu hồi và trưng dụng làm cơ quan, trường học. Tuy nhiên, chủ nhân ngôi biệt thự
này vẫn được chính phủ cho ở lại tầng trên cùng của tòa nhà. Tôi đã nhìn thấy bà ấy
một lần. Đó là hôm chúng tôi chào cờ thứ hai đầu tuần. Bà đi từ bậc tam cấp tầng hai
xuống, mình mặc bộ nhung the đen, vai khoác thêm chiếc khăn the hoa sậm màu,
mái tóc bạc vấn cao, môi đỏ son mỉm cười nhìn xuống như thể một bà hoàng đang
vẫy chào thần dân ngơ ngác. Tôi chưa từng nhìn thấy người nào có dáng vẻ sang
trọng lộng lẫy như thế bao giờ. Mẹ tôi bảo đấy là một người đàn bà tư sản.
Xung quanh ngôi trường tiểu học nhỏ xíu này có nhiều chuyện li kỳ. Cũng lại
mẹ tôi kể rằng trước đây khu vực hồ Ha-le (Halais - hồ Thiền Quang) toàn là các
biệt thự của Pháp. Riêng phố Nguyễn Gia Thiều ngày xưa mang tên Ôn Như Hầu có
ngôi nhà số 7 là trụ sở của Quốc dân Đảng. Quốc dân Đảng cấu kết với thực dân
Pháp bắt cóc nhiều người vào ngôi nhà ấy tra tấn, giết chết rồi vùi xuống hố chôn
tập thể. Nhiều xác chết bị chúng vứt xuống hồ Ha-le. Sau này người ta hút cạn nước
ở hồ thấy vô số xương người dưới ấy. Tôi chẳng hiểu Quốc dân Đảng là gì nhưng
cái từ đó gợi lên trong tôi nỗi hãi sợ vô cớ. Hãn hữu đi qua phố Nguyễn Gia Thiều,
tôi tránh nhìn lên ngôi nhà số 7 sơn trắng ba tầng gác, âm u và tĩnh lặng sau cánh
cổng sắt xanh lục luôn đóng kín bưng. Những biệt thự cổ trên đường Nguyễn Gia
Thiều, Quang Trung, Trần Quốc Toản, Nguyễn Du, Trần Bình Trọng, Hồ Xuân
Hương dù không phải là trụ sở của Quốc dân Đảng nhưng đều có vẻ gì đó khiến tôi
không yên tâm. Ngôi nhà nào cũng có cổng sắt và sân trong um tùm cây lá. Bạn bè
tôi nhiều đứa sống trong những ngôi nhà ấy, mà giờ đã bị chia năm sẻ bảy cho
những hộ gia đình khác nhau. Chúng cũng kể lại những câu chuyện kỳ lạ xảy ra
hàng ngày khiến cả bọn sợ chết khiếp. Hồi học lớp 1, có lần một cô bạn học cùng
lớp rủ tôi về nhà cô ấy ở phố Hồ Xuân Hương, cũng là một ngôi biệt thự cổ. Gần
một phần ba lớp có mặt tại đó. Chúng tôi đọc truyện tranh, kể chuyện ma và xem
các món đồ chơi chưa từng được nhìn thấy bao giờ. Khi chuẩn bị ra về thì trời đổ
mưa ào ạt. Những đứa bạn khác có bố mẹ đến đón, còn tôi sẽ tự đi bộ về nhà bác
Ngọc và ngồi chờ mẹ ở đó. Cô bạn tiễn tôi ra tận cửa, không quên dặn:
- Ấy nên bám dọc theo những bức tường này mà đi, không được đi tách ra khỏi
tường.
- Tại sao thế?
- Tớ không biết. Nhưng bố tớ bảo những cô tiên nước sẽ xuất hiện khi cơn mưa
đến. Sợ lắm. Ấy phải đi sát vào tường.
Tôi không hiểu những cô tiên nước và việc đi bám tường có liên quan gì đến
nhau nhưng vẫn nép sát vào tường mà đi bộ ra hồ. Từ phố Quang Trung về nhà bác
tôi ở Vũ Lợi, những mảng tường bị cắt đứt bởi hồ Ha-le. Mưa sầm sập và trời đã
sẩm tối. Tôi lủi thủi đi dọc bờ hồ, với hy vọng nếu có xuất hiện thì tôi thà nhìn thấy
những cô tiên nước còn hơn các bóng ma leo lên từ dưới đáy hồ.
Chỉ nội trong trường thôi cũng đã vô số chuyện. Trường Tây Sơn tuy nhỏ nhưng
rất ngoắt ngoéo, chỗ nọ thông ra chỗ kia. Riêng phòng chờ giáo viên nằm ở tầng
một, khuất sâu dưới gầm cầu thang lúc nào cũng âm u tối. Một đứa kể rằng có lần
anh nó quên cuốn tập ở lớp nên phải quay lại lấy. Lúc ấy trời đã tối. Anh nó tìm
được cuốn tập thì chuẩn bị ra cổng để đi về. Ngang qua phòng chờ giáo viên thấy
cửa vẫn hé mở, lại còn có cả ánh sáng, mới ngạc nhiên ghé vào xem. Khi vừa mở
cửa phòng, đầu tiên nhìn thấy một đôi chân đi giày tất thể thao đàng hoàng đang
chuyền một quả bóng dưới gầm bàn, nhưng ngó lên chẳng thấy ai cả. Anh nó liền ù
té chạy đến đứt hơi.
Hình như đứa nào cũng sợ phòng chờ giáo viên. Không phải sợ các cô giáo mà
sợ những giá móc treo quần áo, các phù hiệu, bằng khen có thể chuyển động và nhảy
múa bất cứ lúc nào từ khắp các xó xỉnh tối tăm.
Trường chật quá nên các lớp 1 thuê tạm nhà dân ở khu vực xung quanh để làm
phòng học. Lớp 2 mới được chuyển về trường nằm giữa phố Trần Nhân Tông, sát
cạnh hồ Thiền Quang và đối diện công viên Lênin. Những ngày đầu lớp 2, mẹ vẫn