Truyện cổ tích các dân tộc ít người việt nam

  • 86 trang
  • file: .pdf

đang tải dữ liệu....

Tài liệu bị giới hạn, để xem hết nội dung vui lòng tải về máy tính.

Tải xuống - 86 trang

Nội dung text: Truyện cổ tích các dân tộc ít người việt nam

TRUYỆN CỔ CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯỜI VIỆT
NAM
Thông tin truyện:
- Truyện cổ các dân tộc ít người Việt Nam
- Nhà xuất bản văn học - Hà nội - 2000
- BanVăn học Việt Nam tuyển chọn
In theo bản “Truyện cổ Tày - Nùng”- NXB Văn hóa, 1986.
-----------------------------------------
- Nguồn: vdcmedia
- Chuyển sang ebook: trongtk (TVE)
Thuvien-ebook.com
Mục lục:
CHÀNG QUAN TRIỀU
TÀI XÌ PHOÒNG
MẤT TAI, MẤT TÓC
HAI ANH EM VÀ BA CON YÊU TINH
BÁN CÁI TỦ ĐỨNG
MỒ CÔI XỬ KIỆN
KHÔNG BAO GIỜ BIẾT GIẬN
CHIẾC CẦU PHÚC ĐỨC
HÒ KÍNH THÁN
CHÀNG NHO SĨ VÀ CÓC THẦN
TÌNH BẠN
BẮT ĐỀN CHẬU VÀNG
CÁ BỐNG NUỐT CÁ TRÊ
CHÀNG NGỐC ĐI HỌC
TUNG CÒN LẤY ĐƯỢC VỢ TIÊN
CHÀNG QUAN TRIỀU
Quan Triều mồ côi cha mẹ từ ngày còn nhỏ. Chàng được các bác các chú
trong làng nuôi nấng dạy dỗ. Năm mười tám tuổi chàng lấy vợ. Nghề chính của
chàng là quăng chài, kéo vó ở ngoài sông. Vợ chàng thì vào rừng hái củi, mặc
dù hai vợ chồng làm việc rất siêng năng nhưng cuộc sống vẫn thiếu thốn. Làm
nghề câu cá, chàng phải dậy trước gà chuồng để ra sông đặt vó từ lúc cá đang
đói lòng và thức khuya để đón cá chơi trăng. Vì phải thức khuya dậy sớm như
vậy nên có nhiều lần chàng ngủ vật bên bờ sông, bờ suối.
Một hôm, gặp phải ngày trời sương muối nặng hạt, gió bấc rít từng hồi.
Quan Triều ngồi kéo vó khuya, hai con mắt chàng cứ ríu dần, cuối cùng chàng
ngả lưng vào một gốc cây to rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Có một đoàn người đi qua đường, thấy chàng nằm co quắp ở dưới gốc cây
: một người trong bọn họ bèn cởi áo đang mặc đắp cho chàng. Trời sáng rõ,
chàng thức dậy. Thấy có cái áo không biết là của ai, liền cứ thế mặc vào rồi
thu xếp trở về nhà.
Chàng về nhà giữa lúc vợ chàng đang sửa soạn đi kiếm củi. Điều lạ là
Quan Triều gọi vợ, đi lại sát bên người vợ mà vợ vẫn không thấy chồng, mãi
đến khi Quan Triều cởi bỏ áo ngoài ra, vợ chàng mới nhìn thấy chồng. Biết là
áo có phép tàng hình, chàng sung sướng cất kỹ ở đầu giường để chờ dịp dùng
đến ? Năm ấy nhà vua thu nhiều vàng bạc chất vào kho để chi vào việc xây lâu
đài cung điện. Nhân dân trong nước ngày càng đói khổ. Vợ chồng Quan Triều
cũng lâm vào cảnh túng thiếu. Một hôm, chàng mặc áo thần rồi đi thẳng đến
kinh đô, chàng thử vào kho nhà vua lấy trộm một ít vàng bạc về chi dùng.
Chàng bước vào cổng, bọn lính gác, mắt mỏ tròn thao láo mà vẫn không thấy
chàng. Quan Triều ôm một dúm bạc đi ra, bọn lính cũng mù tịt. Lần đầu tiên
lấy được bạc, chàng càng thấy rõ giá trị của áo thần. Chàng lại vào kho lần thứ
hai, thứ ba, không một ai phát hiện ra chàng. Từ đó ngày nào chàng cũng vào
kho nhà vua lấy vàng bạc về phân phát cho bà con làng xóm. Rồi dần dà chàng
đem vàng bạc chia cho cả những dân nghèo ở quanh vùng mọi người rất cảm
phục. Vì dùng áo thần hàng ngày nên áo đã có chỗ rách. Thấy áo bị rách chàng
cắt mảnh giấy dán lại, vì vậy mỗi khi chàng mặc áo thần đi lại, người ta thấy
mụn vá tung tăng nhảy nhót tựa như một con bướm đang bay lượn trong không
trung.
Hàng ngày vào kiểm tra, bọn quan quân thấy kho vàng của nhà vua ngày
càng hao hụt thì lấy làm lạ, chúng tra hỏi bọn lính canh. Bọn lính cũng rất ngạc
nhiên vì hàng ngày chúng canh gác cẩn mật, không hề thấy một người nào bén
mảng, mà sao lại có chuyện mất trộm. Chúng bàn nhau chú ý canh gác nghiêm
hơn. Suốt ngày hôm sau, chúng chỉ thấy ngoài một con bướm bay đi bay lại thì
không có một người lạ nào, nhưng đến chiều khi xem lại đống vàng thì đã thấy
mất hẳn bốn thỏi vàng thoi. Chúng nghĩ xa nghĩ gần “Hay là con bướm đã lấy
trộm” lập tức chúng chuẩn bị săn con bướm. Hôm sau lại một con bướm bay
vào, lưới liền sập xuống, chụp ngay được. Quan Triều liền bị bắt. Chúng giải
chàng lên nộp vua. Nhà vua bèn hạ lệnh tống chàng vào nhà giam chờ ngày xử
án. Nhân dân quanh vùng, được tin Quan Triều bị bắt giam, liền rủ nhau kéo
đến gặp vua, đồng thanh xin tha tội cho chàng. Nhưng vua sai quân lính đuổi
họ ra khỏi cung. Sáng hôm sau, giữa lúc nhà vua đang cùng các quan trong
triều họp bàn xử tội Quan Triều thì chợt nghe cấp báo ở ngoài biên ải, quân
giặc đông như kiến cỏ, đang hung hăng tiến sâu vào đất nước cướp của giết
người. Nghe tin, nhà vua hốt hoảng hoãn ngay việc xử tội Quan Triều, dồn sức
vào việc chống giặc. Thế giặc mạnh như vũ bão, quân nhà vua bị thua ở khắp
nơi. Chúng đang tiến thẳng về kinh đô, nhà vua run lên bần bật, các tướng võ,
các quan văn mặt mày tái mét, vì quân tung ra bao nhiêu bị tiêu diệt bấy nhiêu.
Đã có kẻ bàn đến việc treo cờ hàng, hoàng hậu, phi tần cũng như các bà lớn
nhà quan đều khóc sướt mướt. Nhân dân trong kinh thành kêu khóc như ri, ai
nấy cuống cuồng đi tìm nơi lánh nạn. Chợt có người nhớ tới Quan Triều là
người có nhiều phép lạ, liền tâu vua xin tha cho chàng để chàng đem tài ra dẹp
giặc cứu nước cứu dân. Nhà vua rất tức giận Quan Triều vì đã lấy mất của kho
hơn bẩy trăm thỏi vàng, nhưng nghĩ tới ngai vàng, vua liền chuẩn lời tâu, ra
lệnh ân xá cho chàng và cử chàng cầm quân đánh giặc. Vua hứa :
- Nếu nhà ngươi dẹp được giặc nước, ta không những tha tội chết cho mà
còn phong chức tể tướng, hưởng lộc cao nhất trong các hàng văn võ... Quan
Triều được thả ra giữa lúc quân giặc đang rầm rập kéo đến chân thành vây kín
kinh đô, giữa lúc mọi người đang hoang mang, hoảng hốt.
Sau khi nhận lệnh vua, Quan Triều liền kéo đại quân ra ngoài thành rồi
đóng ở một nơi, chàng bảo họ :
- Để ta sang trại giặc dò thám tình hình, các người hãy sẵn sàng chờ lệnh ta
tiến lên diệt giặc.
Nói xong chàng mặc áo thần vào rồi đi thẳng sang dinh trại giặc sục sạo
khắp nơi. Bọn lính đông như kiến cỏ nhưng không một ai nhìn thấy chàng. Giữa
lúc tên tướng giặc đang hung hăng thúc quân tiến đánh thì Quan Triều giật phắt
thanh kiếm, thét lên một câu, chém đứt đôi người nó chết không kịp ngáp. Quân
giặc mất tướng xôn xao như ong vỡ tổ, chúng giẫm đạp lên nhau, chạy trốn cả
về biên ải, không một đứa nào dám ngoái cổ lại. Thừa thắng Quan Triều quay
về trại, dẫn quân sĩ đuổi theo, tiêu diệt.
Thắng trận trở về, Quan Triều được nhà vua sai bày yến tiệc khoản đãi.
Vua phong chức tể tướng cho chàng giữa muôn tiếng reo hò của quân sĩ và các
quan văn võ triều đình. Sau đó, chàng tâu vua bãi bỏ lệnh thu vàng bạc của dân
để xây lâu đài, lại xin đem vàng bạc trong kho phân phát cho những người
nghèo. Nhà vua nhất nhất nghe lời.
Trăm họ được no ấm. Nước nhà trở lại yên vui. Về sau, khi Quan Triều
chết, dân lập đền thờ để ghi nhớ công của chàng.*
Theo lời kể của cụ Hoàng Huy Toại
Thị xã Cao Bằng
TÀI XÌ PHOÒNG
Tài Xì Phoòng mồ côi cha từ ngày còn bé, mẹ chàng buộc bụng ở vậy nuôi
con. Đếm từng ngày, từng tháng bà mong đứa con chóng lớn. Khi Tài Xì
Phoòng 13 tuổi thì quê hương có loạn, hai mẹ con bị lưu lạc mỗi người một
ngả.
Tài Xì Phoòng được một Núng Cún* đem về nuôi làm hầu bàn. Dần dần
lớn khôn được ông chủ giao cho chuyên việc nấu ăn.
Núng Cún vốn là một viên quan sành nghề đục khoét. Hàng năm cứ đến dịp
tết đầu năm, tết tháng bảy, hay ngày giỗ ông cha, hắn thường mời khéo các
quan trấn địa phương về chơi.
Năm ấy vào một ngày cuối năm, có viên quan trấn nọ đến biếu Núng Cún
một con cá chép khiêng hai. Nhìn con cá vừa đẹp lại vừa béo, Núng Cún hài
lòng. Hắn gọi Tài Xì Phoòng lên dặn làm thịt, một nửa làm viên, một góc xào
tái, một góc bung dừ để soạn một bữa tiệc ngon thết ba viên quan lớn. Lão dặn
đi dặn lại :
- Tiệc tất niên năm nay ta muốn dọn toàn các món cá. Đó là bữa tiệc hiếm
có, ngươi phải nấu ngon, nếu không vừa lòng khách thì người sẽ mất tết và mất
việc.
- Tài Xì Phoòng vâng lệnh chủ, xách con cá chép còn sống xuống bờ sông. Khi
giơ con dao toan mổ, bỗng chàng thấy con cá tự nhiên chảy nước mắt, há mồm
như muốn kêu van. Chàng cảm thấy lòng mình se lại, ngập ngừng giây lát chàng
thả cá xuống sông. Cá gặp nước, quẫy mạnh rồi đến trước mặt Tài Xì Phoòng
tỏ ý cám ơn và biến mất. Giữa lúc đang bâng khuâng, Tài Xì Phoòng sực nhớ
tới bữa tiệc, liền cầm rổ ra chợ định mua một con cá khác. Nhưng ngày chợ
cuối năm, không còn một con nào, chàng đành phải mua thịt lợn về băm viên,
thịt bò về hầm dừ vào xào tái thay cho cá. Khi khách bước vào nhà, Núng Cún
hết lời khoe món ăn đặc biệt. Nhưng khi thức ăn bưng lên, cả chủ lẫn khách
đều ngạc nhiên trố mắt nhìn nhau. Núng Cún mặt đỏ gay quay lại hỏi Tài Xì
Phoòng, chàng đành thuật lại chuyện con cá chép khóc ở bờ sông và việc thả
cá của mình. Núng Cún vừa tiếc của lại vừa xấu hổ với khách, liền quát lính
lôi Tài Xì Phoòng ra sân nọc cổ đánh năm chục roi rồi đuổi ra khỏi nhà.
Giữa buổi chiều ba mươi tết, bị một trận đòn rách da nát thịt và bị tống cổ
ra khỏi nhà chủ, Tài Xì Phoòng khó tìm một nơi nương thân, vì theo phong tục
địa phương, ngày cuối năm, không một ai nhận người lạ mặt vào nhà và cũng
không một ai bỏ tiền ra cho một người nào. Tài Xì Phoòng bèn ra bờ sông ngồi
ôm mặt khóc. Bỗng một con nước tự nhiên phun lên giữa dòng, rồi một cô gái
mặc áo hoa đủ năm màu : xanh, đỏ, trắng, tím, vàng hiện lên giữa con nước.
Cô con gái mặt ngọc, da ngà, từ từ tiến đến trước mặt chàng, cúi đầu chào và
hỏi ?
- Năm hết tết đến, chẳng hay chàng có điều gì mà phải ra đây than khóc ?
Tài Xì Phoòng kể câu chuyện thả con cá chép lúc sáng và việc bị chủ đánh
đuổi cho cô gái nghe.
Cô gái bèn nói :
- Thiếp đây chính là con cá mà chàng thả ban sáng. Nếu không có chàng
thả xuống sông thì thiếp đâu còn có mặt ở đây. Cha thiếp là vua Long Vương,
vậy xin mời chàng về ăn tết với cha thiếp gọi có chút báo đền, mong chàng
chớ chối từ. Tài Xì Phoòng nghe nói rất vui mừng, bèn gật đầu bằng lòng. Cô
gái bảo chàng nhắm mắt lại rồi cầm tay dắt đi. Khi mở mắt ra, chàng thấy ở
trước mặt một tòa lâu đài chín tầng cao ngất. Long Vương niềm nở chào đón
và hết lời cảm ơn chàng đã cứu sống con gái mình. Một lúc sau, một bàn tiệc
có hàng trăm món được bày biện tại phòng ăn. Long Vương mời chàng ăn uống
thỏa thích, ăn xong chàng được mời đến một phòng ấm cúng có gối thêu đệm
gấm để nghỉ lưng, có kẻ hầu người hạ. Là khách quý của Long Vương, ba ngày
tết, chàng được tiếp đãi hết sức đầy đủ thân mật. Sang ngày thứ tư, chàng xin
phép Long Vương cho trở về trần. Công chúa buồn rầu ngỏ ý muốn được kết
duyên với chàng, tạ lại ơn cứu sống. Tài Xì Phoòng từ chối nói mình là thân
tôi đòi hèn hạ, không cha mẹ, anh em, họ hàng, không nhà cửa, đâu dám sánh
cùng công chúa cành vàng lá ngọc.
Long Vương và các triều thần ở Thủy phủ hết lời khuyên nhủ, Tài Xì
Phoòng không thể từ chối được và lễ cưới được tổ chức rất linh đình.
Sau ngày cưới ít lâu, Tài Xì Phoòng bàn với vợ sửa soạn về trần. Công
chúa bằng lòng đi theo chồng, nàng dặn chồng nếu vua cha cho vàng bạc châu
báu thì chớ nhận chỉ nên xin cái phù lù tẩu.* Có cái đó sẽ có mọi thứ trên đời.
Buổi chiều hôm ấy, Tài Xì Phoòng gặp Long Vương xin về trần và ngỏ ý đưa
cả vợ về theo. Long Vương không giữ chân chàng được. Khi Long Vương định
cho con rể vàng, bạc, châu báu thì Tài Xì Phoòng nhớ lời vợ dặn liền tâu xin
cái phù lù tẩu. Long Vương không chút ngần ngại vào buồng riêng lấy đưa cho.
Tài Xì Phoòng cảm ơn, đoạn hai vợ chồng từ biệt Long Vương về trần. Chàng
lại nhắm nghiền mắt để vợ dắt đi, chỉ giập bã trầu, họ lên đến bờ sông. Khi
mặt trời gác núi họ đi tới một bãi rộng mênh mông, công chúa nhìn khắp bốn
phía rồi nói :
- Trời tối rồi, chúng ta hãy nghỉ lại đây thôi ! Tài Xì Phoòng hỏi :
- Sao không kiếm nơi có làng mạc mà trú chân lại nghỉ tại chốn đồng không
mông quạnh này. Công chúa nói : Mọi sự lo lắng của chàng sẽ được cái vật
này lo cho hết. Nói xong công chúa đón lấy cái phù lù tẩu ở trên vai chồng rồi
đưa lên miệng nói :
Phù lù tẩu ! Phù lù tẩu ! Hãy cho ta một tòa lâu đài năm gian ba tầng, cho
ta mọi thứ đồ sang trọng đầy đủ. Nói dứt lời thì một tiếng nổ vang lên như ấm
động, một tòa nhà ba tầng hiện lên trước mặt hai vợ chồng. Công chúa đứng
dậy dắt tay chồng đi vào từng buồng, mọi thứ đồ dùng ở mỗi buồng đều bằng
vàng hoặc bằng bạc. Trên những chiếc giường đều có đủ chăn, màn quần áo
bằng vải vóc lụa là, đủ các màu xanh, đỏ, trắng, tím, vàng hãy còn gấp nếp
mới nguyên. Sáng hôm sau, chàng lấy phù lù tẩu ra ước một đàn trâu, một đàn
bò và lợn, gà, ngan, ngỗng. Từ đó Tài Xì Phoòng nghiễm nhiên trở nên người
chủ của một cơ nghiệp lớn... Một hôm, ngày cuối mùa mưa, ngồi trên lầu cao
nhìn xuống chàng thấy một bà cụ lưng còng, chống gậy đi qua, bất giác chàng
nhớ tới người mẹ già. Thấy chồng bỗng nhiên thở dài, công chúa hỏi:
- Chẳng hay chàng còn có nỗi buồn gì nữa ? Tài Xì Phoòng đáp :
- Tôi có một người mẹ không biết hiện nay lưu lạc nơi nào, nhớ đến mẹ già
thân yêu mà cảm thấy lòng se gan héo... Công chúa bèn bàn với chồng nên mở
hội phát chẩn cho người nghèo đói để có dịp tìm mẹ. Nghe lời vợ, Tài Xì
Phoòng treo bảng mở hội phát chẩn, tin ấy truyền ra, những người nghèo khó
khắp nơi lũ lượt tìm đến lâu đài. Từ sáng đến chiều, chàng cố nhận mặt từng
người. Nhưng ngày này tiếp ngày khác, Tài Xì Phoòng vẫn chưa tìm ra được
người mẹ thân yêu.
Một hôm, công chúa hỏi :
- Chẳng hay ngày còn trẻ mẹ chàng còn có tài nghệ gì đặc biệt ? Tài Xì Phoòng
đáp :
- Nàng hỏi tôi mới nhớ. Hồi còn trẻ, mẹ tôi còn có tài ca hát, mỗi khi mẹ tôi
cất tiếng hát, chuột ở trong ổ cũng phải ló đầu ra nghe, chim đang bay cũng
phải ngừng cánh... Nghe chồng nói, công chúa tiếp lời :
- Nếu vậy thì chúng ta lại một lần nữa mở hội mời các đoàn ca
hát đến làm vui, chàng thử nghĩ xem có nên không ?
Nghe lời vợ Tài Xì Phoòng yết lại bảng mở hội ca hát và mời tất cả những
đoàn ca hát xa gần về dự. Quả nhiên nhờ đó Tài Xì Phoòng nhận ra được mẹ.
Mẹ con gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Từ đó mẹ Tài Xì Phoòng ở lại cùng với
con và dâu không còn phải lo kiếm ăn từng bữa. Trong gần một tháng trời, Tài
Xì Phoòng vừa mở hội phát chẩn, vừa mở hội ca hát, làm rộn rịp cả một vùng.
Núng Cún nghe tin lấy làm lạ lắm. Hắn bèn thân hành đến tận nơi xem xét,
đứng ở dưới góc sân nhìn trộm lên lầu, thấy rõ ràng thằng nấu bếp cũ của mình
đang đứng bên cạnh một cô vợ trẻ đẹp như một nàng tiên, hắn rất ngạc nhiên
và ghen tị. Càng ngắm vợ Tài Xì Phoòng, hắn càng mê mẩn tâm thần, bèn nẩy
ra một kế để chiếm đoạt vợ Tài Xì Phoòng.
Hai hôm sau, Núng Cún cho người sang mời Tài Xì Phoòng lại chơi. Tài
Xì Phoòng hỏi ý vợ, vợ chàng nói :
- Thằng Núng Cún vốn là người không tốt. Lần này hắn mời chàng đến
chơi tất có ý gì đây. Nhưng chàng cứ đi, mọi việc đã có thiếp.
Tài Xì Phoòng gật đầu, sang chơi nhà Núng Cún. Vừa nhìn thấy chàng
bước vào sân, Núng Cún vội chạy ra đón chào và mời chàng ngồi lên giường
cao, đoạn sai người ở sửa tiệc mời khách. Sau vài tuần rượu, thấy Tài Xì
Phoòng đã chếnh choáng hơi men, hắn lân la hỏi Tài Xì Phoòng nguyên do vì
sao mà trở nên giàu có. Tài Xì Phoòng dẻo mồm kể hết mọi bước đường sau
ngày ở nhà Núng Cún ra đi. Chàng cũng không quên nói rõ cả cái phù lù tẩu đã
giúp chàng lập nên cơ đồ. Núng Cún liền nổi lòng tham, hắn vừa muốn đoạt vợ
của Tài Xì Phoòng lại vừa muốn chiếm cái phù lù tẩu. Lão bèn chuốc thêm
rượu cho chàng. Đến khuya, Tài Xì Phoòng say mềm như bún, Núng Cún bèn
sai cõng ngay chàng vào buồng vợ ba của mình. Đến gần sáng Tài Xì Phoòng
tỉnh rượu, thì vợ ba Núng Cún nắm lấy chàng la lớn lên rằng Tài Xì Phoòng
vào buồng mình định giở trò bậy bạ. Núng Cún thức dậy hò hét người ở trói gô
chàng lại, hắn hầm hầm quát tháo.
- Tội mày thật to như trời biển, lát nữa ta sẽ cho giải đến nhà vua.
Biết là mắc mưu Núng Cún, Tài Xì Phoòng mắng nhiếc trả lại không tiếc
lời. Nhưng rồi Núng Cún vờ giả nhân giả nghĩa bảo chàng phải chuộc tội bằng
cách đổi vợ, đổi nhà cửa của cải kể cả cái phù lù tẩu.
Tài Xì Phoòng nói :
- ừ ! Đổi cũng được. Nhưng tôi còn phải hỏi vợ tôi xem đã. Nghe Tài Xì
Phoòng nói vậy, Núng Cún liền ra cởi trói cho chàng, hắn cười hềnh hệch nói
tiếp :
- Mày về nhớ nói khéo với vợ mày, mày đổi thế là khôn : Đổi một vợ lấy
được ba vợ, đổi một cái nhà lấy một tòa nhà, đổi vài đàn gia súc lấy tất cả kho
vàng bạc châu báu, mất một cái phù lù tẩu được một cái ấn quan• Mày không
thiệt gì cả, nghe không !
Tài Xì Phoòng về kể lại mọi chuyện đã xẩy ra, nhưng vợ chàng đã nói :
- Đây là một dịp để chàng vừa giầu sang vừa có quyền thế, chàng hãy nghe
lời hắn mà đổi vợ, đổi nhà. Đã đến lúc thiếp phải nói thật với chàng, với mẹ.
Thiếp là người dưới Long cung không thể ăn đời ở kiếp với chàng mãi được.
Sớm muộn thiếp sẽ phải từ biệt chàng và mẹ về với cha thiếp, chàng hãy bằng
lòng làm theo lời lão quan kia thì sẽ có ba người vợ, có nhà cửa, có vàng bạc,
châu báu, của cải và ấn quan. Những cái đó mới thực là của chàng mãi mãi...
Có tiếng Núng Cún gọi ở ngoài sân, chàng trả lời là mình đã bằng lòng.
Núng Cún thấy Tài Xì Phoòng và vợ bằng lòng thì vô cùng mừng rỡ, hắn liền
theo Tài Xì Phoòng lên lầu gặp công chúa. Công chúa nói :
- Ta và chồng ta đã bằng lòng, Núng Cún hãy mau mau đưa chồng ta sang bên
nhà trao cho chàng tất cả vợ con, gia tài, ấn tín rồi hãy sang đây...
Núng Cún bèn đưa Tài Xì Phoòng về nhà, trao vợ con, nhà cửa, kho vàng,
kho bạc, của cải, ấn quan cho chàng rồi tất tưởi quay đi. Ba người vợ ngơ
ngác chẳng hiểu câu chuyện ra thế nào.
Tài Xì Phoòng lại phải một lần nữa kể tất cả mọi việc đã xẩy ra. Ba người
vợ Núng Cún bấy lâu cũng đã chán ghét hắn nay lại càng căm chồng ăn ở tệ
bạc. Ba nàng đều vui lòng nhận lấy Tài Xì Phoòng làm chồng. Những kẻ ăn
người ở trong nhà cũng vui vẻ nhận chàng làm chủ. Lại nói chuyện Núng Cún
sau khi đến với người vợ mới, hắn cười khà khà toan ôm chầm lấy công chúa
nhưng công chúa nhanh nhẹn lánh người đi, làm cho hắn quờ hụt ngã xuống
sàn. Thấy vậy, công chúa bèn nói :
- Vợ chồng ăn đời ở kiếp với nhau, Núng Cún chớ nên nóng vội, từ nay
Núng Cún phải nghe thiếp...
Chiều hôm ấy, công chúa sai phù lù tẩu làm một bữa tiệc lớn có đủ 12 thứ
rượu ngon và một trăm món ăn. Trong bữa tiệc, ngồi đối diện với Núng Cún,
nàng chuốc chén ép mời hắn. Tiệc rượu tàn, hắn gục xuống bên bàn ăn, ngáy ồ
ồ như sấm !
Công chúa bèn ghé môi khẽ nói với chiếc bầu bạc:
- Phù lù tẩu hãy hoàn lại cái lâu đài này, cùng tất cả các vật dùng trong nhà về
cho Long Vương...
Dứt lời một tiếng nổ long trời lở đất vang lên và mọi thứ đều biến mất. Chỉ
còn lại một mình Núng Cún. Đột nhiên nước dâng lên mỗi lúc một to làm cho
Núng Cún bỗng thức giấc. Thấy mình đang nằm trên bãi cỏ, hắn rùng mình kêu
la cầu cứu, hắn gào, thét đến đứt hơi, nhưng khoảng không trung chẳng có ai trả
lời hắn. Hắn hoảng hốt đứng lên, ù té chạy. Nhưng muộn mất rồi, làn nước đã
cuốn hắn về với vực thẳm.
Theo lời kể của ông Vương Viết Khoảng
Đông Đăng, Lạng Sơn
MẤT TAI, MẤT TÓC
Ngày xưa, có một chàng thanh niên mồ côi cha mẹ từ tấm bé, được người
làng nuôi cho lớn khôn. Người ta quen gọi chàng là Mồ côi. Mồ côi càng lớn
càng làm khỏe, không có ruộng vườn, ngày ngày chàng đem sức đổi lấy hai
bữa ăn. Thấy chàng cần cù và có lòng tốt, các bậc già cả, các cô con gái và
các em bé đều quý mến. Những ngày mưa to gió lớn, chàng không đi làm được
thì các cô con gái rủ nhau đem gạo nhà sang giúp. Thấy vậy một vài chàng trai
trẻ trong làng đem lòng ghen ghét, họ tìm cách hãm hại Mồ côi.
Một hôm, Mồ côi bị bốn trai làng xúm lại đánh đến sứt mặt, mẻ trán giữa
lúc chàng đang cùng một cô gái làng đi làm đồng về. Chàng bị đau dừ cả
người, nằm mấy ngày chưa lại sức. Thấy bọn con trai ghét mình, chàng bèn
chạy sang làng bên cạnh làm thuê, gánh mướn nuôi thân. Nhưng đến ở làng này
chưa được bao lâu, chàng lại bị bọn trai làng rủ nhau gây chuyện và đánh đập.
Mồ côi lại phải bỏ làng này ra đi một lần nữa. lần này chàng định đi kiếm ăn ở
một nơi rất xa. Chàng đi ba ngày liền, đến một làng nhỏ ở ven rừng hẻo lánh.
Chàng vào một nhà phú ông xin ở làm thuê. Phú ông thấy Mồ côi mạnh khỏe,
nhanh nhẹn, liền nhận lời giao cho chàng công việc hái trám. Nhưng khi nhìn
rừng trám rộng mênh mông, cây nào cũng to bằng hai ba người ôm và cao
thẳng vút lên trời. Mồ côi lắc đầu, lè lưỡi. Phú ông ngon ngọt dỗ dành và hứa
trả công cao, trèo xong rừng trám, lão sẽ trả cho 500 lạng bạc. Lão còn bày
cách bắc thang tre để trèo. Công việc leo trèo thật là vô cùng vất vả và nguy
hiểm, nhưng vì thấy là phú ông đối đãi có vẻ tốt, nên Mồ côi không tiếc sức.
Từ đó ngày nào chàng cũng trèo thang lên ngọn cây trám, cầm sào vụt rụng
từng chùm trám chín xuống đất để phú ông cùng vợ và con cái thả sức thu
lượm đưa ra chợ bán. Một tháng rưỡi trôi qua, với cây sào và cái thang. Mồ
côi leo hết cây trám này đến cây trám khác. Phú ông cũng thu về hết món bạc
này đến món bạc kia.
Hôm ấy, Mồ côi trèo đến cây trám thứ hai trăm cũng là cây cuối cùng.
Thấy sắp phải tính công trả cho Mồ côi số bạc hơn năm trăm lạng, phú ông gọi
vợ đến bàn mưu tính kế.
Sáng hôm ấy, vợ chồng phú ông dậy từ lúc gà gáy, sai con nấu cơm làm
bữa mời Mồ côi.
Cơm nước xong, Mồ côi lại theo gia đình phú ông vác sào ra rừng trám.
Sau khi Mồ côi đã trèo đến ngọn cây thì ở dưới gốc, phú ông sai con rút
lấy thang tre vác về nhà, mặc cho Mồ côi ở trên cao kêu la ầm ĩ. Chàng cố tìm
cách tụt xuống, nhưng loay hoay hàng nửa buổi, cũng không tìm ra cách gì cả.
Thân trám thẳng tắp, to bằng hai người ôm, không thể bấu víu vào đâu để tụt
xuống được. Thế là từ đấy, chàng phải sống ở trên ngọn cây trám như loài khỉ
vượn đói, chàng phải hái quả trám ăn sống, khát nước, chàng liếm từng giọt
sương đêm đọng trên từng chiếc lá. Đêm cũng như ngày, chàng không dám ngủ
say, ăn hết quả trám, chàng phải ăn đến lá, ăn hết lá, chàng phải ăn đến vỏ.
Một buổi sáng, trời hửng nắng Mồ côi cởi chiếc áo cánh phơi lên một cành
trước mặt, giữa lúc ấy có một con gấu ngựa đi qua dưới gốc cây. Trông thấy
cái áo của Mồ côi nó tưởng là tổ ong, liền trèo lên định ăn mật. Đến gần bên
cái áo, mắt gấu lim dim để tránh ong đốt vào mắt như thói quen của nó, rồi
nhoài người ra ngoặm lấy cái áo cánh nhai ngấu nhai nghiến.
Thấy thế, một ý nghĩ táo bạo mới nẩy ra trong óc Mồ côi.
Nhằm lúc con gấu đang nhắm tịt cả hai mắt và mải nhai cái áo. Mồ côi liền
nhè nhẹ tụt xuống, cưỡi ngay lên lưng con gấu, hai tay ghì chặt lấy cổ. Gấu bị
ôm bất thình lình, hốt hoảng nhưng cũng không dám buông tay đành phải cõng
cả Mồ côi tụt dần xuống gốc. Khi gấu còn cách mặt đất hai ba sải, Mồ côi vội
nhẩy xuống đất bỏ chạy. Gấu cũng chạy đuổi theo Mồ côi. Mồ côi cố sức chạy
mãi vào rừng. Bỗng có một cái hang sâu chắn ngang trước mặt, chàng đành
phải nhảy liều xuống hang ; gấu không dám nhảy theo. Mồ côi nhờ vậy được
thoát. Nhưng cũng từ đây chàng lại lâm vào một cảnh khổ cực, nguy hiểm khác.
Hang tối om om, chàng phải lần mò từng bước chân để tìm một lối ra ngoài.
Chàng đi mãi trong hang nhưng đi tới đâu cũng chỉ thấy tối như bưng. Xung
quanh chàng chỉ có những con dơi bay đi bay lại, chúng bay giữa đầu chàng
rứt từng sợi tóc, từng mảnh da. Mặc dầu vậy chàng cố len lỏi đi hết góc hang
này lại dò đi sang góc hang kia mong tìm một lối thoát. Chợt một hôm chàng
lần tới một chỗ có một tia ánh sáng lọt vào. Chàng vui mừng khấp khởi, nhưng
về sau mới biết đó chỉ là một lỗ thông thiên chứ không phải là cửa hang. Tuy
vậy chàng cũng cố vịn vào vách đá trèo lên để vượt ra ngoài. Nhưng sức
chàng đã yếu lắm, đã năm bẩy lần leo lên được vài ba sải tay rồi lại bị ngã
xuống chỗ cũ. Một hôm trong khi nằm ngất trong hang, chàng thấy một ông cụ
đầu tóc bạc phơ, tay cầm một cái rìu và một hòn đá thần đến gần. Ông cụ bảo :
- Ta là thần núi ; thấy con khổ cực quá nên đến cứu con đây ! Ta cho con một
cái rìu, nó sẽ cho con cơm ăn áo mặc. Ta cho con hòn đá thần này, con đem
rìu mài vào hòn đá này vào da, da sẽ trở nên trắng trẻo và đẹp đẽ. Cuối cùng
ta cho con viên thuốc này nó sẽ cho con sức khỏe vượt hang. Nói xong, thần
núi biến mất. Mồ côi tỉnh dậy, nhặt viên thuốc bỏ vào mồm, tự nhiên thấy
người nhẹ nhõm lạ thường. Chàng giắt cái rìu và hòn đá vào thắt lưng rồi leo
theo vách thẳng lên lỗ thông. Khác với những lần trước, lần này chàng trèo
nhanh thoăn thoắt, chỉ một lát đã tới lỗ thông hơi và nhìn thấy ánh sáng bên
ngoài. Chàng nhắm mắt lại một lúc rồi đu người ra khỏi hang.
Chàng lần xuyên qua rừng, đến quá trưa, tới bờ một con sông cái. Chàng
men bờ, xuôi theo dòng. Đi được một quãng chàng gặp một ông cụ tiều phu,
nhìn thấy Mồ côi mặt mũi gớm ghiếc, đầu không còn sợi tóc, da dẻ sần sùi, hai
vành tai sứt lở, áo quần rách nát, ông cụ bỏ chạy, Mồ côi đuổi theo kể mọi nỗi
gian lao của mình cho ông nghe. Ông cụ bảo chàng giúp mình đốn củi và phát
nương rồi sẽ đưa về nhà. Mồ côi liền lấy cái rìu ra mài vào hòn đá thần, cái
rìu trở nên rất sắc. Chàng chỉ chặt một lúc đã được một đống củi chất đầy cả
một gian nhà. Tối hôm ấy, chàng được ăn nghỉ ở nhà ông cụ. Ông cụ có sáu cô
con gái. Cả sáu cô đều đã đến tuổi lấy chồng. Thấy bố dắt về một chàng trai
không ra hình người, các cô con gái, trừ cô út, đều tránh xa. Họ nói với bố
đuổi ngay Mồ côi ra khỏi nhà. Ông cụ phải mắng mãi, các cô mới chịu im.
Cuối cùng các cô bảo bố cho Mồ côi ra ở lều ngoài nương để chàng vừa phát
thêm rẫy vừa coi lúa. Hàng ngày các cô sẽ luân phiên nhau đưa cơm, bắt đầu
từ cô cả. Để khỏi giáp mặt Mồ côi, cô cả đem một cái mõ treo lên một gốc cây
ở đầu nương cách lều khoảng một trăm bước. Cô gõ mõ một hồi ba tiếng rồi
đặt nắm cơm ở dưới gốc cây, gọi Mồ côi đến lấy cơm ăn. Đoạn cô ba chân
bốn cẳng quay trở về nhà, không cần biết rằng Mồ côi có nghe hay không. Lần
lượt bốn cô em cũng bắt chước làm như cô chị. Duy chỉ có cô út đến lượt
mình đưa cơm, cô không bỏ nắm cơm ở dưới gốc cây, cũng không gõ mõ như
các chị, mà đi vào đến tận lều, trao tận tay Mồ côi. Trong khi Mồ côi ăn cơm,
cô ngồi lại, hỏi thăm sức khỏe, quê quán, gia đình của chàng. Cô cố ý ngồi chờ
cho Mồ côi ăn xong rồi mới về nhà. Từ ngày ra ở lều, Mồ côi vẫn làm mọi
việc như ông cụ dặn. Sáng nào chàng cũng mài rìu vào hòn đá thần cho rìu
thêm sắc để chặt được nhiều cây ; Chiều nào chàng cũng ra suối tắm, lấy hòn
đá thần kỳ vào người quả nhiên da dẻ chàng dần dần trở lại hồng hào đẹp trai
hơn trước. Bẵng đi một thời gian không thấy cô út đến đưa cơm. Chàng thấy
buồn cho là cô út cũng bắt chước các chị đặt cơm nắm ở gốc cây, rồi vội vã
trở lại nhà ngay. Không biết rằng cô út bận sang giúp việc nhà bà cô ở làng
bên. Sau ba tháng cô út trở lại nhà, cô lại đem cơm vào lều cho Mồ côi.
Nhưng không thấy chàng Mồ côi xấu xí như mọi ngày mà chỉ thấy một chàng
trai mặt mày sáng sủa, da dẻ hồng hào, đầu tóc gọn ghẽ thì lấy làm ngạc nhiên,
vội hỏi :
- Chàng là ai ? Chàng ở đâu đến ? Chàng có biết cái anh Mồ côi bị dơi ăn
mất hai vành tai, rứt hết mái tóc trước đây coi nương ở lều này không? Biết là
cô út không nhận ra mình nữa vì mình đã nhờ đá thần mà thay đổi nhiều lắm.
Nhưng Mồ côi chỉ gật đầu chào cô út không thưa không rằng. Cô út hỏi tới hai
ba lần mà chàng chỉ cười chứ không nói một lời. Thấy vậy, cô út đặt nắm cơm
xuống sàn, quay ra cửa nhìn về phía rừng gọi Mồ côi. Cô gọi tới hai ba tiếng,
vẫn không có tiếng trả lời. Gọi xong cô út xuống thang đi vào rừng tìm. Cô tìm
khắp bốn góc nương lại hú gọi luôn mồm nhưng vẫn không thấy, cô đành chạy
một mạch về nhà.
Ngày hôm sau, đến lượt cô cả đi đưa cơm, cô út xin đi thay. Cô định hôm