Nội dung text: Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng việt.
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
Thống kê sơ bộ về các quan
điểm cơ bản trong nghiên
cứu từ loại tiếng Việt.
Bởi:
Trần Kim Phượng
Dưới đây là một thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu
từ loại tiếng Việt.
Tên tác Số
Tiêu chí xác định từ loại Danh sách
giả lượng
A. de Những từ biến hình (danh từ, đại từ,
2 loại
Rhode Ý nghĩa tính từ, động từ) và những từ không
lớn
1651 biến hình.
Lê Văn
Danh từ, động từ, tính từ, ngôi từ, số
Lý Giá trị kết hợp 6
từ, phụ từ.
1948,1968
Danh từ, đại danh từ, động từ, hình
Phan Khôi
Chức năng cú pháp 9 dung từ, phó từ, giới từ, liên từ, thán
1955
từ.
Vị từ (danh từ, đại từ, chỉ từ, số từ);
Hoàng Khả năng kết hợp Chức vụ
4 tiểu từ (phó từ, giới từ, liên từ, trợ
Tuệ 1962 cú pháp
từ); loại từ, thántừ
Trương
Văn Thể từ (danh từ); trạng từ (sự trạng
Ý nghĩaChức năng NP 3
Chình động, sự trạng tĩnh), trợ từ.
1963
Danh từ, thời vị từ, số từ, động từ,
Nguyễn Khả năng kết hợp Biện
12 tính từ, đại từ, phó từ, giới từ, liên
Kim Thản pháp cải biên
từ, hệ từ, trợ từ, thán từ.
1/17
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
Hoạt động của từ trong ngữ
Lưu Vân Từ nòng cốt (danh từ, đại từ, động
đoạn tầng bậc hạt nhân, vị 2 loại
Lăng từ, tính từ); từ phụ gia (hạn từ, phó
trí, chức năng, vai trò của lớn
1970 từ, hệ từ, hiệu từ).
từ trong ngữ đoạn động.
Từ có thể làm trung tâm đoản ngữ
Nguyễn
2 loại (danh từ, động từ, tính từ); từ không
Tài Cẩn Khả năng tổ chức đoản ngữ
lớn thể làm trung tâm đoản ngữ (định
1975
từ, trạng từ, quan hệ từ, trợ từ…)
Danh từ, đại từ, động từ, tính từ, từ
Đái Xuân Vị trí của từKhả năng kết
8 kèm, từ định chức, từ nghi vấn, từ
Ninh 1978 hợpÝ nghĩa của từ
đệm.
Ý nghĩa khái quát, khả
Đinh Văn Danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại
năng kết hợp, chức vụ cú 9
Đức 1985 từ, từ phụ, từ nối, tiểu từ, trợ từ.
pháp
Diệp Ý nghĩa khái quát, Khả Danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại
Quang năng kết hợp, Chức vụ cú 9 từ, phụ từ, kết từ, tình thái từ, thán
Ban1989 pháp từ.
Bùi Minh Ý nghĩa khái quát, Khả
Danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại
Toán năng kết hợp, Chức vụ cú 8
từ, phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ.
1992 pháp
V. X. Thực từ (động từ, tính từ, danh từ,
5 loại
Panfilov Ý nghĩa đại từ nhân xưng), bán thực từ, hư
lớn
1993 từ, bán hư từ, tiểu từ.
Ý nghĩa khái quát, Khả Danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại
Lê Biên
năng kết hợp, Chức vụ cú 9 từ, phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ,
1996
pháp thán từ.
Tiểu kết
- Sự khác nhau trong cách nhìn nhận về đặc trưng của loại hình ngôn ngữ đơn lập, phân
tích tính dẫn đến sự khác nhau trong việc xác định vấn đề tiếng Việt có phạm trù từ loại
hay không.
- Từ quan niệm khác nhau về tiêu chí phân định từ loại của các tác giả, dẫn đến số lượng
và tên gọi của các từ loại khác nhau.
- Theo thời gian, các tiêu chuẩn phân định từ loại ngày càng được bổ sung đầy đủ và
chặt chẽ.
2/17
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
- Cho đến nay, nhìn chung, quan điểm của các tác giả về căn cứ phân loại, số lượng,
tên gọi, bản chất của các từ loại là tương đối thống nhất và bám sát hơn vào ngữ liệu
tiếng Việt. Điều này phản ánh sự phát triển biện chứng trong nhận thức về ngôn ngữ của
người Việt, khẳng định một bước trưởng thành của ngành ngôn ngữ học.
- Việc phân chia từ loại thành các tiểu loại cũng đã được nghiên cứu từ lâu và cũng đã
thu được những kết quả rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, ở đây, chúng tôi chưa có điều
kiện để đề cập đến vấn đề này.
- Các tác giả theo trường phái ngữ pháp chức năng ít quan tâm tới vấn đề từ loại, (có lẽ
chủ yếu quan tâm đến sự phân biệt động từ/tính từ).
Vấn đề thành phần câu
Như ta đã biết, việc nghiên cứu thành phần câu trong tiếng Việt được bắt đầu bằng Từ
điển An Nam – Lusitan – Latinh 1651, song ở đó mới chỉ là những phác thảo sơ lược.
Tới những năm 40, thế kỷ XX, vấn đề này mới được nghiên cứu trở lại. Ban đầu, các
tác giả miêu tả thành phần câu tiếng Việt bằng cách mô phỏng tiếng Pháp theo phương
pháp phân tích mệnh đề của ngữ pháp duy lý. Câu gồm ba thành tố: chủ ngữ (chủ từ),
động từ và bổ ngữ. Quan điểm này đã phản ánh một nhược điểm trong tư duy của các
nhà ngữ pháp học thời ấy là không phân biệt thành phần câu với từ loại, nói cách khác là
lẫn lộn chủng loại ngữ pháp của từ với chức năng của từ. Các đại diện tiêu biểu là Trần
Trọng Kim 1940, Phạm Tất Đắc 1953…
Những năm 50, trong nghiên cứu thành phần câu tiếng Việt có sự chuyển đổi từ cái nhìn
từ bản vị sang cú bản vị, với tinh thần lấy tổ chức của câu làm gốc. Tên gọi các thành
phần câu có sự thay đổi đáng kể. Đại diện tiêu biểu là Phan Khôi 1955, Nguyễn Lân
1956, Phan Ngọc 1957…
Từ những năm 60 đến nay, có nhiều công trình đề cập đến vấn đề thành phần câu với
các quan niệm khác nhau về bản chất thuật ngữ thành phần câu, danh sách, tiêu chí xác
định… Dưới đây là một số tóm tắt cơ bản.
Tên tác
Quan điểm chính Danh sách thành phần câu
giả
Bùi Đức - Tiêu chí nghĩa(Khuynh - TP chính: chủ ngữ, tuyên ngữ- TP phụ: bổ
Tịnh 1952 hướng từ bản vị) túc ngữ…
- Thành phần chủ yếu: C, V- Thành phần liên
- Tiêu chí chức năng NP
Phan Khôi đới: tân ngữ, bổ túc ngữ.- Thành phần phụ
(Khuynh hướng cú bản
1955 gia: hình dung phụ gia ngữ, phó từ phụ gia
vị)
ngữ.
3/17
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
- Tiêu chí nghĩa, chú ý
mối liên quan giữa thành - Thành phần chủ yếu: C, V- Thành phần thứ
Hoàng
phần câu và từ loại, trật yếu: Đ, B (B bao gồm cả tân ngữ và Tr, trong
Tuệ 1962
tự từ và khả năng trả lời đó Tr bổ nghĩa cho động từ)
câu hỏi.
Trương
Văn - TP cốt yếu: chủ từ, thuật từ.- TP phụ: chủ
Chình, đề, bổ từ, giải từ, phó từ, quan hệ từ.(Chủ đề
- Tiêu chí nghĩa
Nguyễn có thể hợp với chủ từ và thuật từ làm thành
Hiến Lê cốt câu)
1963
• Tiêu chí ngữ
- TP chính: C, V- TP phụ: các thành phần thứ
Nguyễn nghĩa
yếu (Tr, K) và các thành phần biệt lập (cảm
Kim Thản • Tiêu chí hình
hoán ngữ, phụ chú ngữ, đồng ngữ)- TP trong
1964 thức
từ tổ: B, Đ
(Lý thuyết từ tổ)
• Các tiêu ngữ (phương thức, thời gian,
Thompson Phương pháp phân tích
nơi chốn, chủ đề…)
L.C1965 thành tố trực tiếp
• Vị ngữ
Lê Văn • Chủ từ, thuật từ và túc từ.
Lý 1968 • …
Lưu Vân Quan điểm tầng bậc có - Phần cốt: đề, thuyết- Phần thêm: gia
Lăng 1970 hạt nhân. tố(Phần thuyết có thể bao gồm Tr, B, Đ)
Nhóm
- Dựa vào nghĩa(Phương - Thành phần chủ yếu: C, V- Thành phần thứ
Nguyễn
pháp phân tích câu của yếu & thành phần phụ thuộc (V phụ, Đ, B) -
Tài Cẩn
NP truyền thống) Thành phần xen kẽ.
1975
Hoàng - TP chính: C, V- TP thứ: Tr, Đ câu, thành
Là sự dung hoà 2 quan
Trọng phần chuyển tiếp, thành phần độc lập.- TP
điểm: lý thuyết từ tổ và
Phiến phụ thuộc: B, Đ từ, đồng vị ngữ, trạng tố,
ngữ pháp truyền thống.
1980 thành phần tăng cấp.
- TP nòng cốt: đề – thuyết- TP phụ: TP than
UBKHXH Quan điểm tầng bậc hạt
gọi, TP chuyển tiếp, TP chú thích, TP tình
1983 nhân và lý thuyết từ tổ.
huống, TP khởi ý.
Diệp • TP chính: C, V
- Quan hệ ý nghiã giữa
Quang • TP phụ của câu: Tr, đề ngữ, phụ ngữ
các từ trong câu.- Các
Ban1989 câu, giải ngữ câu, liên ngữ.
4/17
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
đặc trưng hình thức của • TP phụ của từ: B, Đ, giải ngữ của từ,
từ trong câu. phụ ngữ của từ.
- TP câu gồm 2 phần: hoặc là chủ ngữ - vị
ngữ, hoặc là đề ngữ - ứng ngữ, thức ngữ -
Hồ Lê Phân biệt cú pháp trong
hành động ngữ, điều kiện ngữ, kết quả ngữ.-
1991 tư duy và cú pháp tại lời.
Đ, B là TP phụ trong từ tổ. Nên gọi là định
tố, bổ tố.
TP câu: đề, thuyết.(Trong phần đề có chủ đề
Cao Xuân
Ngữ pháp chức năng và khung đề, ngoài cấu trúc đề - thuyết có
Hạo 1991
ngoại đề).
Ý nghĩa khái quát, Khả - TP chính: C, V- TP phụ: Tr, thành phần
Bùi Minh
năng kết hợp, Chức vụ cú chuyển tiếp, hô ngữ…- TP biệt lập: giải
Toán 1992
pháp thích, phụ chú.
V. X.
Chủ ngữ, bổ ngữ, vị ngữ, định ngữ cho vị
Panfilov Xu hướng hình thức
ngữ, trạng ngữ.
1993
Nguyễn
Minh
Sử dụng các thủ pháp
Thuyết, - TP chính: C, V, B bắt buộc- TP phụ của
hình thức theo quan điểm
Nguyễn câu: Tr, Đ câu, K, tình thái ngữ.
của S.E. Yakhôntôv.
Văn Hiệp
1997
Tiểu kết
- Bảng tổng kết sơ bộ trên đây phản ánh sự khác nhau khá rõ trong quan niệm của các
tác giả về tên gọi thành phần câu, số lượng thành phần câu, việc phân biệt thành phần
chính với thành phần phụ của câu, phân biệt thành phần phụ của câu với thành phần phụ
của từ.
- Về thành phần chính của câu, ngoài quan điểm của ngữ pháp chức năng, có hai ý kiến:
thứ nhất, cho rằng thành phần chính của câu bao gồm chủ ngữ và vị ngữ; thứ hai, cho
rằng thành phần chính của câu bao gồm cả chủ ngữ, vị ngữ và bổ ngữ. Nguyễn Minh
Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp, Trần Ngọc Thêm theo quan điểm thứ hai này.
- Sự khác nhau lớn nhất là sự khác nhau trong quan niệm về vai trò của bổ ngữ: Nguyễn
Kim Thản, Hồ Lê cho rằng bổ ngữ là thành phần phụ của từ tổ, Nguyễn Minh Thuyết và
Nguyễn Văn Hiệp cho nó là thành phần chính của câu.
5/17
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
- Thực ra, ngay trong chính bản thân một tác giả, theo thời gian, quan niệm về thành
phần câu cũng có những thay đổi mà chúng tôi chưa có điều kiện đề cập ở đây.
- Chúng tôi cũng không có điều kiện giải thích về sự trùng lặp tên gọi nhưng không
trùng lặp nội dung khái niệm (và ngược lại) của một số thuật ngữ được sử dụng trong
bảng này. (Chẳng hạn đồng vị ngữ của Hoàng Trọng Phiến tương đương với vị ngữ phụ
của Nguyễn Minh Thuyết; chủ đề của Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê tương
đương với khởi ngữ của Nguyễn Kim Thản, Hoàng Tuệ, Nguyễn Văn Hiệp, từ-chủ đề
của Bystrov I.S, Nguyễn Tài Cẩn, Stankevich N.V, đề ngữ của Diệp Quang Ban; còn
thành phần tình huống của UBKHXH thì được phần lớn các nhà ngữ pháp gọi là trạng
ngữ ).
Vấn đề phân loại câu
Như đã nói, địa hạt cú pháp, trong đó trung tâm là vấn đề các kiểu câu, là địa hạt phức
tạp nhất trong ngữ pháp học bởi ở đó có sự gặp gỡ của nhiều hiện tượng ngôn ngữ. Như
một cái đích cần đạt tới trong nghiên cứu cú pháp, rất nhiều tác giả đã tiến hành phân
loại câu tiếng Việt bằng các hình thức tiếp cận khác nhau, theo các tiêu chí khác nhau.
Các kiểu câu trong tiếng Việt, do vậy, cũng vô cùng phong phú và đa dạng.
Việc định nghĩa câu hay xác định các kiểu câu trong tiếng Việt được tiến hành muộn
hơn so với việc nghiên cứu từ loại và thành phần câu. Trong các sách ngữ pháp ra đời
sớm nhất ở nước ta như Từ điển An Nam – Lusitan – Latinh 1651 hay Grammaire de
la langue Annamite 1883, các kiểu câu hoàn toàn vắng bóng. Phải đến những năm 40
của thế kỷ trước, việc phân loại câu mới được đề cập đến. Có lẽ sớm nhất là trong Việt
Nam văn phạm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm. Song, do ảnh hưởng
của khuynh hướng từ bản vị trong nghiên cứu cú pháp, ảnh hưởng của ngữ pháp nhà
trường Âu châu, theo quan điểm có bao nhiêu động từ thì có bấy nhiêu mệnh đề, việc
phân loại câu (câu đơn, câu phức hợp) của các tác giả trên có nhiều điểm không rành
mạch. Bùi Đức Tịnh (1952) cũng là người chịu ảnh hưởng sâu sắc quan điểm này. Phạm
Tất Đắc (1953) thì cho rằng Phân tích một câu là phân tích những mệnh đề trong câu
(70, tr83)… Giai đoạn sau, việc miêu tả cấu trúc câu được tiến hành tỷ mỷ hơn, chặt chẽ
hơn song vẫn còn nhiều vấn đề chưa thống nhất. Dưới đây là một số quan điểm chính.
Tên tác Tiêu chí
Các kiểu câu
giả phân loại
Lê Văn 24 kiểu tổ hợp cùng từ loại, 70 kiểu tổ hợp khác từ loại, 29
Lý 1948 kiểu đặt câu với 5 từ và những hoán vị khác nhau.
Theo bản
Emeneau
chất của 2 loại hình câu: câu danh từ và câu động từ.
M.B 1951
từ loại
6/17
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
Theo số
Bùi Đức 2 loại: câu một mệnh đề và câu có nhiều mệnh đề.Loại 2:
lượng
Tịnh1952 mệnh đề độc lập liên kết, mệnh đề chính và mệnh đề phụ.
mệnh đề
Theo số 2 loại: câu đơn giản (câu đơn giản với kết cấu C-V, câu đơn
Hoàng
lượng giản với bổ ngữ, câu đơn giản có định ngữ) và câu phức hợp
Tuệ 1962
mệnh đề (có quan hệ phụ thuộc, có quan hệ liên hợp)
1. Theo
Trương
cách cấu
Văn
tạo (số 1. Hai loại: câu đơn, câu phức.(câu phức có 3 loại: câu tiếp
Chình,
lượng liên, câu kết liên, câu tiếp kết)2. Ba loại: câu nói theo giọng
Nguyễn
cú)2. thường, câu nói theo giọng hỏi, câu nói theo giọng biểu cảm.
Hiến Lê
Theo ngữ
1963
điệu
1. Theo
1. Hai loại: câu đơn giản (câu song phần, câu đơn phần, câu
Nguyễn kết cấu
danh xưng) và câu phức hợp (câu phức liên hợp, câu phức
Kim Thản ngữ pháp.
qua lại).2. Bốn loại: tường thuật, nghi vấn, cầu khiến, cảm
1964 2. Theo
thán.
mục đích
Theo từ
loại, số
8 loại: câu tự loại, câu đơn giản, câu phức tạp, câu khẳng
Lê Văn lượng
định, câu phủ định, câu nghi vấn, câu khuyến lệnh, câu cảm
Lý 1968 thuật từ,
thán.
mục
đích…
2 loại: câu đơn (câu có một từ, câu có một cụm từ 2 chiều
hoặc 1 cụm từ một chiều, câu có một cụm từ 2 chiều hoặc 1
cụm từ một chiều làm nòng cốt); câu ghép (câu có 2 hay
Theo số
Lê Xuân nhiều cụm từ 2 chiều kết hợp với nhau theo quan hệ song
lượng
Thại 1969 song, câu có một cụm từ song song, câu có hai hay nhiều
cụm từ
cụm từ một chiều kết hợp với nhau theo quan hệ song song,
câu có 2 hay nhiều cụm từ làm nòng cốt có quan hệ song
song)
Lưu Vân
Theo số 2 loại: câu đơn (câu đơn thần tuý, câu đơn có cú con) và câu
Lăng
lượng cú kép (câu kép liên hợp, câu kép chính phụ)
1970
Hoàng 1. Theo 1. Ba loại: câu đơn (câu sự kiện, câu định danh), câu trung
Trọng cấu trúc gian (câu móc xích, câu có một thành phần ứng với một câu
Phiến ngữ con), câu ghép (ghép qua lại, ghép đẳng lập)2. Ba loại: câu
1980 nghĩa.2. kể, câu hỏi, câu cầu khiến.
7/17
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
Theo mục
đích phát
ngôn
Theo số
2 loại: câu đơn (câu tả, câu luận), câu ghép (ghép song song,
lượng và
UBKHXH ghép qua lại).Câu đơn có thể chia theo thuyết tính thành 6
quan hệ
1983 loại: khẳng định, phủ định, tường thuật, nghi vấn, cầu khiến,
giữa các
biểu cảm.
nòng cốt.
Theo
phân đoạn
Trần
cấu trúc 4 cấu trúc nòng cốt: - Nòng cốt đặc trưng : CT VđR- Nòng
Ngọc
và phân cốt quan hệ : CT (Vq – B)R- Nòng cốt tồn tại : TrT (Vt– B)R-
Thêm
đoạn lôgic Nòng cốt qua lại : xVT yVR
1985
- ngữ
pháp.
1. Theo
1. Hai loại: câu đơn (câu đơn hai thành phần, câu đặc biệt,
cấu tạo
Diệp câu đơn mở rộng nòng cốt câu, câu đơn mở rộng thành phần
ngữ pháp
Quang câu, câu dưới bậc), câu ghép (câu ghép có từ liên kết, câu
cơ bản2.
Ban1989 ghép không có từ liên kết).2. Bốn loại: tường thuật, nghi vấn,
Theo mục
mệnh lệnh, cảm thán.
đích nói
1. Theo
cấu trúc
cú pháp2.
Theo 1. Ba loại: câu hai phần (Đ-T), câu một phần (T), câu đặc
Cao Xuân hành động biệt (không có cấu trúc Đ- T).2. Bốn loại: trần thuật, nghi
Hạo 1991 ngôn vấn, cầu khiến, cảm thán.3. Ba loại: câu tồn tại, câu biến cố
trung3. (+động), câu tình hình (- động).
Theo
nghĩa biểu
hiện.
1. Theo
cấu tạo
1. Hai loại: câu đơn (câu đơn bình thường, câu đơn đặc biệt),
Bùi Minh ngữ
câu ghép (câu ghép có ý nghĩa liệt kê, câu ghép có quan hệ
Toán pháp2.
lựa chọn, câu ghép có quan hệ hô ứng…)2. Bốn loại: tường
1992 Theo mục
thuật, nghi vấn, cầu khiến, cảm thán.
đích phát
ngôn
Tiểu kết
8/17
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
(1) Bản tóm tắt trên đây đã phản ánh khá rõ nét sự khác nhau trong cách lựa chọn tiêu
chí phân loại câu tiếng Việt, dẫn đến sự khác nhau trong nội bộ từng loại câu, cả ở tên
gọi, cả ở nội dung quan niệm.
(2) Việc phân loại câu, theo thời gian, tiến dần đến chỗ thống nhất hơn. Các tiêu chí
phân loại triệt để hơn, minh bạch hơn. Do vậy, kết quả của việc phân loại này có tác
dụng thiết thực hơn đối với người dạy và học tiếng Việt.
(3) Điểm trùng nhau giữa ngữ pháp cấu trúc và ngữ pháp chức năng trong cách phân
loại câu là ở tiêu chí phân loại theo mục đích nói mà ngữ pháp chức năng gọi là phân
loại theo hành động ngôn trung. Điểm khác nhau giữa hai khuynh hướng trên là ở loại
câu chia theo tiêu chí cấu trúc ngữ pháp, do một bên chọn cách phân tích truyền thống:
chủ – vị, một bên chọn cách phân tích mới: đề - thuyết. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này
trong phần dưới đây.
(4) Cũng giống như cách trình bày vấn đề từ loại và vấn đề thành phần câu, đối với các
kiểu câu tiếng Việt, chúng tôi vẫn chọn cách kẻ bảng tổng kết như trên để người đọc
tiện so sánh, đối chiếu. Song cách làm này có một hạn chế lớn là phải trình bày hết sức
khái quát tất cả cấc vấn đề. Do vậy, chúng tôi không trình bày được khái niệm của các
kiểu câu, đặc điểm của từng loại, các tiểu loại hay các ví dụ minh hoạ… Do vậy, có hiện
tượng, tên gọi các kiểu câu giống nhau, nhưng nội hàm khái niệm lại khác nhau. Chẳng
hạn, Hoàng Tuệ (1962) cho rằng câu phức hợp là câu gồm 2 mệnh đề trở lên, nhưng nếu
hai mệnh đề ấy tồn tại độc lập, không có từ quan hệ, thì không phải là câu phức hợp mà
là câu đơn. Trong khi đó, Diệp Quang Ban lại xếp nó vào loại câu ghépkhông có từ liên
kết (câu ghép chuỗi)…
Cấu trúc chủ – vị và cấu trúc đề – thuyết
Có thể nói, cuộc tranh luận lớn nhất trong ngữ pháp học tiếng Việt những năm cuối thế
kỷ XX là cuộc tranh luận xung quanh cấu trúc chủ-vị (C-V) và cấu trúc đề-thuyết (Đ-T),
hai cách phân tích câu tiêu biểu của ngữ pháp truyền thống và ngữ pháp chức năng, giữa
một bên là đa số các tác giả phía Nam và một bên là phần lớn các tác giả phía Bắc.
Cặp thuật ngữ C–V xuất hiện từ rất sớm, có lẽ cùng với sự ra đời của ngôn ngữ học
mà xuất phát điểm của nó là tên gọi hai thành phần của một phán đoán trong lôgic học.
Càng ngày, cặp thuật ngữ này càng trở nên gắn bó với cú pháp tiếng Việt và có một chỗ
đứng vững chắc trong lối phân tích câu theo cấu trúc ngữ pháp của người Việt.
Còn Đ và T thì xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX. Ở Việt Nam, nó có mặt vào khoảng
những năm 60 – 70 của thế kỷ trước. Khái niệm này có trong các công trình của Lưu
Vân Lăng (1970), UBKHXH (1983), Trần Ngọc Thêm (1985)… và chính thức đứng vào
thế cạnh tranh quyết liệt với cặp C–V vào những năm 90, khi Sơ thảo ngữ pháp chức
năng của Cao Xuân Hạo ra đời.
9/17
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
Cuộc tranh luận giữa Đ-T và C–V đã bùng nổ gay gắt khi ngữ pháp chức năng tuyên bố
theo quan điểm của Ch.N. Li và S.A. Thompson, xếp tiếng Việt vào loại hình ngôn ngữ
thiên chủ đề (topic - prominent), và việc dùng kết cấu C-V để làm tiêu chí xác định câu
và phân loại câu tiếng Việt là một việc làm kỳ dị. Theo Cao Xuân Hạo và các cộng sự
của ông thì cách tư duy nhân loại chỉ có một, cho nên câu của bất kỳ ngôn ngữ nào cũng
có hai phần đề và thuyết (5, tr18). Với tiếng Việt, cấu trúc cú pháp của câu tương ứng
một đối một với cấu trúc sở đề – sở thuyết của mệnh đề, cho nên không cần có những
khái niệm riêng cho cú pháp như chủ ngữ, vị ngữ để phân biệt cấu trúc cú pháp với cấu
trúc mệnh đề. (5, tr18). Đ-T không thuộc bình diện phân đoạn thực tại cũng không thuộc
bình diện dụng pháp mà thuộc bình diện logíc-ngôn từ…
Lưu Vân Lăng cũng ủng hộ quan điểm trên. Ông cho rằng: Khái niệm C-V trong ngữ
học truyền thống không những không chính xác, mà thuật ngữ, nhất là chủ ngữ, subject,
dễ gây ra những sự hiểu nhầm, vì nó gắn liền với khái niệm chủ thể (45, tr77).
Trên các Tạp chí Ngôn ngữ và Ngôn ngữ và đời sống, một loạt những bài báo xoay xung
quanh vấn đề này liên tiếp được đăng tải, là tiếng nói góp ý xây dựng cho một trào lưu
ngữ pháp mới ở nước ta, đang đòi hỏi xoá sổ một cách phân tích câu đã ăn sâu vào tiềm
thức của người Việt Nam hơn một thế kỷ nay. Đó là tiếng nói của các tác giả Đỗ Hữu
Châu (1992), Nguyễn Lai (1992), Diệp Quang Ban (1992), Lưu Vân Lăng (1992), Hồ
Lê (1993), Đinh Văn Đức (1993), Phan Thiều (1993), Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp
(1996), Đào Thanh Lan (1996), Lê Xuân Thại (2002)…, Trần Thanh Ái (2003)… Một
tập thể lớn đang cố gắng tỉnh táo nhận ra những ưu, nhược của ngữ pháp chức năng trong
việc nó có thể thay thế được hay không cho ngữ pháp truyền thống. Diệp Quang Ban
nói: Chỗ khác nhau giữa quan hệ C-V và quan hệ Đ-T, xét ở phương diện công dụng
trong đời sống ngôn ngữ, là ở chỗ quan hệ C-V bám chắc hơn vào mối liên hệ ý nghĩa
giữa các thành tố trực tiếp trong cấu tạo câu, và do đó, làm thành cấu trúc hình thức
của câu. Còn quan hệ Đ-T thì bám chắc hơn vào nhiệm vự diễn đạt trong tình huống
dùng câu… Lý lẽ mà tác giả đưa ra là có căn cứ và hoàn toàn xác đáng. Kết luận của
Diệp Quang Ban về vấn đề này là: Đặt ngữ pháp Đ-T vào thế cạnh tranh một mất một
còn với ngữ pháp C-V là không thoả đáng (13, tr54).
Có một thực tế mà ít người phủ nhận là trong tiếng Việt, có những câu, nếu phải phân
tích cấu trúc cú pháp ra các thành phần C, V, B, Tr… thì khó vô cùng, nếu không muốn
nói là bế tắc. Trong khi đó, nếu áp dụng cách phân tích câu theo cấu trúc Đ-T thì lại rất
dễ dàng. Một thực nghiệm cũng cho thấy với bộ thuật ngữ Đ-T, học sinh tiếp nhận văn
bản rất tốt, nhưng khi cấu tạo văn bản viết, học sinh tỏ ra yếu hơn những học sinh học
theo sách vẫn dùng quan hệ C-V lâu nay (13, tr54). Có nghĩa là cả hai cách phân tích câu
đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Sự xuất hiện của cấu trúc Đ-T trong ngữ
pháp chức năng không phải là sự phủ nhận cấu trúc C-V. Chúng tôi xin kết luận vấn đề
này bằng lời của TS Trần Thanh Ái: Từ R. Martin đến M.A.K. Halliday, C. Hagège, O.
Ducrot hoặc M. Galmiche, tất cả đều quan niệm cặp phạm trù này (Đ-T) không loại trừ
cặp phạm trù ngữ pháp C-V, mà ngược lại, nó được nghiên cứu để bổ sung cho những
10/17
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
hiểu biết về câu mà ngữ pháp đã mang lại. Sự bổ sung ấy, dù cho với tên gọi là “cấu
trúc câu như là một thông điệp” (M.A.K. Halliday) hoặc phương diện “phát ngôn-tôn
ti” (C. Hagège), đều phải được quan niệm trong tổng thể ba mặt của mọi thực tế ngôn
ngữ. Mọi cố gắng nhằm tách rời chúng ra khỏi nhau trong nghiên cứu chắc chắn sẽ
không tránh khỏi siêu hình, phiến diện (77, tr43).
Vấn đề thời và thể
Thời, thể tiếng Việt cũng là một trong những vấn đề được nghiên cứu từ rất sớm và
những năm gần đây, nó là trung tâm của một cuộc tranh cãi lớn trong giới ngôn ngữ học.
Giải quyết vấn đề thời, thể có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ đặc trưng của
tiếng Việt nói riêng và loại hình ngôn ngữ đơn lập phân tích tính nói chung.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề thời, thể trong tiếng Việt có thể tạm chia làm ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Xu hướng dập khuôn ngữ pháp nhà trường tiếng Pháp
- Giai đoạn 2: Xu hướng phủ nhận phạm trù thời, thể trong tiếng Việt.
- Giai đoạn 3: Xu hướng quay trở lại nghiên cứu thời, thể với nhiều góc nhìn khác nhau.
Đại diện cho xu hướng thứ nhất là Alexand de Rhode (1651), Trương Vĩnh Ký (1883).
Những nghiên cứu ban đầu về thời, thể nói chung chịu ảnh hưởng nặng nề của quan điểm
dĩ Âu vi trung. Với các tác giả này, thời được coi như là một phổ niệm cho mọi ngôn
ngữ, nói cách khác, theo họ, đã là ngôn ngữ thì hiển nhiên có phạm trù thời. Trương
Vĩnh Ký cho rằng: Động từ tiếng Việt là một từ không biến hình. Muốn trình bày nó
trong các lối và các thời của nó, người ta dùng các hư từ hay các phụ tố (affixes). Tiếng
Việt có ba thời cơ bản: Thời quá khứ được biểu thị bằng đã, thời hiện tại biểu thị bằng
đang và thời tương lai biểu thị bằng sẽ.
Cách hiểu trên đã đơn giản hoá phạm trù thời tiếng Việt. Nó không phản ánh đứng bản
chất của vấn đề này.
Xu hướng thứ hai xuất hiện ở nửa đầu thế kỷ XX. Cũng như người ta đã từng phủ nhận
phạm trù từ loại trong tiếng Việt, Grammông và Lê Quang Trinh (1911), Trần Trọng
Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1940) cho rằng tiếng Việt không có phạm trù thời. Các
tác giả này nhấn mạnh vào đặc điểm không biến hình của động từ tiếng Việt, lấy đó làm
căn cứ phủ nhận phạm trù thời. Thậm chí Grammông và Lê Quang Trinh còn cho rằng
trong tiếng Việt không có động từ và do đó cũng không biến ngôi. Còn Trần Trọng Kim
và các cộng sự của ông thì khẳng định: Để nói rõ về thời gian diễn ra sự việc so với thời
điểm nói, người ta dùng các phó từ chỉ thời gian làm thành phần trạng ngữ trong câu,
như: bây giờ, hôm qua, ngày mai… Khi muốn diễn đạt một sự việc đã hoàn thành, người
ta dùng đã trước động từ và rồi, xong sau động từ. Tất nhiên, đây chưa phải là toàn bộ
cách diễn đạt các ý nghĩa thời, thể trong tiếng Việt, và việc quyết liệt phủ nhận phạm trù
11/17
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
thời trong tiếng Việt cũng cần phải bàn thêm, song, hướng đi của các tác giả trên đặt ra
cho những người nghiên cứu ngày hôm nay một tiên đề rằng nếu như phạm trù thời, thể
tiếng Việt có tồn tại, thì nó cũng khác xa về bản chất so với các ngôn ngữ châu Âu.
Nằm trong xu hướng thứ ba, Nguyễn Kim Thản không trả lời thẳng vào câu hỏi: tiếng
Việt có phạm trù thời hay không, song ông cũng cho rằng: Không nên coi những phó
từ đang, còn, vẫn, đã, cứ,… là công cụ ngữ pháp, biểu thị phạm trù ngữ pháp thời của
riêng động từ tiếng Việt, mà nên coi phạm trù này là phạm trù của vị ngữ (54, tr230).
Về vấn đề thể, ông khẳng định: Ngữ pháp tiếng Việt có phạm trù thể (54, tr230).
Hoàng Tuệ (1962) thì phát biểu quan điểm của mình là: Trong Việt ngữ, không có hình
thức đặc biệt để biểu thị thời gian… Pháp ngữ cũng như Việt ngữ, có thể biểu đạt ý
nghĩa thể nhưng bằng phương pháp có tính chất phân tích (30, tr419). Sau này, ông dè
dặt hơn: Thật khó xác định các ý nghĩa thời, thể và tình thái theo những sự phân biệt và
phân loại quen thuộc về ngữ pháp và từ vựng (30, tr731).
Panfilov V. X. (1979, 1993, 2002) là một trong những tác giả nước ngoài đặc biệt quan
tâm đến vấn đề thời, thể trong tiếng Việt. Ông theo khuynh hướng cho rằng trong tiếng
Việt có phạm trù thời. Ông tham gia vào cuộc bút chiến căng thẳng với Cao Xuân Hạo,
người đứng ở phía quan điểm trái ngược với ông. Ông khẳng định đã, đang và sẽ chính
là những chỉ tố về thời của tiếng Việt.
Nguyễn Minh Thuyết (1995) đã tìm ra một danh sách các hư từ chuyên đứng trước thuật
từ để biểu thị đồng thời các ý nghĩa thời và thể của tiếng Việt. Kết luận của tác giả là:
Thời và thể là hai phạm trù ngữ pháp thật sự trong tiếng Việt, vì: a. Chúng bao gồm
những ý nghĩa bộ phận đối lập nhau (như: tương lai/phi tương lai; hoàn thành/phi hoàn
thành; tiếp diễn/phi tiếp diễn…) và b. Mỗi ý nghĩa bộ phận như trên được diễn đạt bằng
một tiền phó từ nhất định, tạo thành một hệ thống (58, tr 9).
Người kiên trì quan điểm cho rằng trong tiếng Việt chỉ tồn tại phạm trù thể mà không
tồn tại phạm trù thời là Cao Xuân Hạo (1998, 2002). Ông khẳng định: Tiếng Việt tuyệt
nhiên không có thì… Khi cần định vị một sự tình trong thời quá khứ hay hiện tại, tiếng
Việt dùng đến những khung đề có ý nghĩa từ vựng thích hợp như: xưa kia, trước đây,
hiện nay, bây giờ… (6, tr10). Song, ông vẫn công nhận vai trò của chỉ tố sẽ trong việc
biểu hiện ý nghĩa tương lai và công nhận nếu ba chỉ tố đã, đang và sẽ đi liền với nhau
thì chúng lại có ý nghĩa thời.
Đinh Văn Đức (2001) thận trọng và mềm mại hơn, ông không tán thành cả hai quan
điểm trên. Dường như ông cho rằng thời tiềm tàng ở động từ, phản ánh các quy chiếu
có tính lôgic trong ngữ năng của người Việt (21, tr305), rằng người bản ngữ tiếng Việt
tri nhận thời cả từ ngữ nghĩa của toàn phát ngôn chứ không riêng từ động từ vị ngữ (21,
tr308), rằng đã, sẽ, đang một mặt tham gia vào tình thái của câu (ở đây, ông gặp quan
12/17
Thống kê sơ bộ về các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu từ loại tiếng Việt.
điểm của Cao Xuân Hạo), mặt khác, tham gia biểu hiện ý nghĩa thời, thể (ở đây, ông
chia sẻ với Nguyễn Minh Thuyết và Panfilov).
Tóm lại, việc quay trở lại nghiên cứu vấn đề thời, thể ở nửa cuối thế kỷ XX với nhiều
góc nhìn khác nhau phản ánh sự phức tạp của chính bản thân đối tượng. Cho đến thời
điểm này, có thể khẳng định, quan điểm của các tác giả là trong tiếng Việt có phạm trù
thể. Còn vấn đề thời thì vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Các phương tiện biểu thị ý
nghĩa thời, thể cũng đã được nghiên cứu công phu hơn nhưng chưa đi đến thống nhất.
Có thể là một quan điểm dung hoà như Đinh Văn Đức chăng? Câu trả lời có lẽ sẽ được
tìm thấy trong những nghiên cứu tiếp theo ở nửa đầu thế kỷ mới này.
Thay lời Kết
Là một đề tài mang tính chất tổng kết, đánh giá, do vậy, chúng tôi không nhắc lại những
gì mình đã làm trong phần nội dung chính vừa rồi. Xin viết những lời thay cho phần kết
luận.
Khoa học chân chính bao giờ cũng là sự tiếp thu có phê phán quan điểm của những
người đi trước. Con đường đến với khoa học không bao giờ là con đường bằng phẳng,
thênh thang. Chúng ta không thể đòi hỏi những cống hiến tuyệt đối của Lê Văn Lý, của
Phan Khôi, của Nguyễn Tài Cẩn, hay của Cao Xuân Hạo… cho Ngữ pháp học Việt Nam
ngày hôm nay, cũng như chúng ta đã từng chấp nhận cây đại thụ Ferdinand de Saussure
với tất cả những tích cực và hạn chế của mình đối với sự hình thành của ngành ngôn ngữ
học hiện đại. Chúng ta ghi nhận ở các tác giả ấy, và rất nhiều những tác giả mà chúng
tôi chưa có điều kiện để nhắc tên ở đây, những cố gắng chân thành, cảm động, không
mệt mỏi cho ngành Ngữ pháp học Việt Nam. Để rồi ngày hôm nay, chúng ta, con cháu
của chúng ta đã có một hành trang không nhỏ về ngữ pháp bước vào thế kỷ XXI.
Viết về cả một tiến trình ngữ pháp tiếng Việt hơn một thế kỷ qua, bấy nhiêu trang, có
lẽ là không đủ. Càng không bao giờ đủ nếu công việc này chỉ được thực hiện bởi một
người. Trong hơn một thế kỷ qua, ở Việt Nam, đã có hàng trăm cuốn sách được xuất
bản, hàng ngàn bài báo được công bố; và những gương mặt cũ, mới trong giới ngôn ngữ
học cũng là một con số khổng lồ. Chúng tôi không dám đặt cho mình tham vọng trình
bày hết, hay thậm chí kể tên, các nhà ngữ pháp học, các bài báo, các chuyên luận, các
giáo trình về ngữ pháp… Cách đánh giá, nhìn nhận mọi vấn đề, dù rất cố gắng, cũng
không tránh khỏi chủ quan. Song theo chúng tôi, tất cả những gì là cơ bản nhất đều đã
được bàn tới trong công trình này.
Hy vọng trong một khoảng thời gian dài hơn, với một tập thể hùng hậu hơn, chúng tôi
lại có dịp quay trở lại vấn đề này.
Hà Nội ngày 26 tháng 06 năm 2004
13/17