Kinh dịch - đạo của người quân tử - nguyễn hiến lê

  • 112 trang
  • file: .pdf

đang tải dữ liệu....

Tài liệu bị giới hạn, để xem hết nội dung vui lòng tải về máy tính.

Tải xuống - 112 trang

Nội dung text: Kinh dịch - đạo của người quân tử - nguyễn hiến lê

Kinh dịch - Đạo của người quân tử
Nguyễn Hiến L ê
Mục lục
• Lời nói đầu
• Lời nói đầu của Nguyễn Hiến Lê
• Chương 1 : NGUỒN GỐC KINH DỊCH VÀ NỘI DUNG PHẦN KINH
• Chương 2 : NỘI DUNG PHẦN TRUYỆN
• Chương 3 : CÁC PHÁI DỊCH HỌC TỪ HÁN TỚI NAY
• Chương 4 : THUẬT NGỮ VÀ QUI TẮC CẦN NHỚ
• Chương 5 : ĐẠO TRỜI
• Chương 6 : VIỆC NGƯỜI
• chương 7 : TU THÂN, ĐẠO LÀM NGƯỜI
• PHẦN II - KINH VÀ TRUYỆN 64 QUẺ : DỊCH VÀ GIẢNG
• I. Quẻ Thuần Càn : Nội quái, ngoại quái đều là Càn.
• 2. Quẻ Thuần Khôn : Nội quái, ngoại quái đều là Khôn.
• 3. QUẺ THỦY LÔI TRUÂN : Ngọai quái (ở trên) là Khảm, nội quái (ở dưới) là
Chấn
• 4. Quẻ SƠN THỦY MÔNG : Trên là Cấn (núi) dưới là Khảm (nước)
• 5. QUẺ THỦY THIÊN NHU : Trên là Khảm (nước), dưới là Càn (trời)
• 6. QUẺ THIÊN THỦY TỤNG : Trên là Càn (trời), dưới là Khảm (nước) ngược
hẳn với quẻ 5.
• 7.QUẺ ĐỊA THỦY SƯ : 7.QUẺ ĐỊA THỦY SƯ-
• 8. QUẺ THỦY ĐỊA TỈ : Trên là Khảm (nước), dưới là Khôn (đất)
• 9. QUẺ PHONG THIÊN TIỂU SÚC : Trên là Tốn (gió) dưới là Càn (trời)
• 10. QUẺ THIÊN TRẠCH LÝ : Trên là Càn (trời), dưới là Đoài (chằm)
• 11. QUẺ ĐỊA THIÊN THÁI : Trên là Khôn (đất), dưới là Càn (trời)
Lời nói đầu
Mọt sách xin giới thiệu đến các bạn một cuốn sách quý của học giả Nguyễn Hiến Lê: Kinh
dịch đạo của người quân tử do chị Huyền Băng đánh máy và các bạn Trương Củng, vnn
chỉnh sửa phần chữ hán.
để có thể xem được ký hiệu các quẻ và chữ hán trong tài liệu này thì các bạn nên cài vào
máy của mình các font chữ sau:
Font code2000 download ở đây: http://code2000.net/CODE2000.ZIP
font chữ Arial Unicode MS Standard hoặc Chu Nom Minh download ở đây: (arialuni.rar, độ
lớn 13MB) hoặc (taifont.zip, độ lớn 5.3MB).
Nói đến Kinh dịch do Nguyễn Hiến Lê biên soạn, trước tiên phải nói đến tiểu sử của ông.
HB xin được chép vào đây tiểu sử của Nguyễn Hiến Lê theo tài liệu biên soạn.
HỌC GIẢ NGUYỄN HIẾN LÊ
(1912-1984)
Nguyễn Hiến L ê (1912-1984)
Nguyễn Hiến Lê tự là Lộc Đỉnh, sinh ngày 8 - 1 - 1912, quê làng Phương Khê, phủ Quảng
Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Sơn Bình)
Xuất thân trong một gia đình nhà Nho yêu nước, thuở nhỏ học tại trường Yên Phụ, Trường
Bưởi, Trường Cao đ8ảng Công chánh Hà Nôi. Năm 1934 tốt nghiệp làm việc tại các tỉnh
miền Tây Nam Bộ nên có điều kiện hiểu biết về đất nước và con người ở các địa phương
thuộc khu vực nạy Sau cách mạng Tháng Tám, ông bỏ đời sống công chức , đi dạy học ở
Long Xuyện Năm 1952 thôi dạy, lên Sài Gòn mở nhà xuất bản và sống bằng ngòi bút.
Những năm trước 1975 tại Sài gòn, Nguyễn Hiến Lê là một trong vài người cầm bút được
giới trí thức quí mến về tài học, nhân cách đối với xã hội cũng như trong học thuât. trong
đời cầm bút của mình trước khi mất, ông đã xuất bản được đúng 100 bộ sách, về nhiều lĩnh
vực: Văn học, Ngôn ngữ học, Triết học, Tiểu luận phê bình, Giáo dục, Gương danh nhân, Du
kí, dịch tiểu thuyết...Do thành quả lao động nghiêm cẩn của mình, ông được nhiều người
trân trong. Những năm 60,70 chính quyền Sài gòn đã tăng ông "Giải thưởng văn chương
toàn quốc", "Giải tuyên dương sự nghiệp văn học", với một ngân phiếu lớn (tương đương
mấy chục lượng vàng). Ông đã công khai từ chối với lý do "dùng tiền ấy để giúp nạn nhân
chiến tranh" và bản thân tác giả không hề dự giải .
Tác phẩm của ông là những đóng góp lớn cho văn hóa Việt Nam. Năm 1980 ông về ẩn cư ở
Long Xuyên, rồi bệnh mất ngày 22-12-1984 tại Sài Gòn, hỏa thiêu ở Thủ Đức, hưởng thọ 72
tuổi.
Các tác phẩm tiêu biểu của ông:
Lịch sử thế giới, Đông Kinh nghĩa thục, Bán đảo Ả Rập, Văn minh Ả rập, Sử Trung Quốc,
Lịch sử văn minh Trung quốc, Nguồn gốc văn minh... Đại cương văn học sử Trung Quốc,
Văn học hiện đại Trung Quốc, Cổ văn Trung Quốc, Hương sắc trong vườn văn, Luyện văn,
Sử kí Tư Mã Thiên, Chiến Quốc sách, Tô Đông Pha, Đại cương Triết học Trung quốc, Mạnh
Tử, Liệt Tử và Dương Tử, Nhà giáo họ Khộng Để hiểu văn phạm, khảo luận về ngữ pháp Việt
Nam, Gương danh nhân, Gương hy sinh, Gương kiên nhẫn, Ý chí sắt đá, Gương phụ nữ,
Những cuộc đời ngọai hạng, Tìm hiểu con chúng ta, Thế hệ ngày mai...
Kể từ năm 1975 đến năm mất (1984) ông viết thêm được trên 20 tác phẩm dài hơi (phần
lớn về Trung Quốc học) như:
Mặc học, Hàn Phi Tử , Trang Tử, Kinh Dịch, Đạo của người quân tử, Hồi Ký...Tuân Tử,
Golgol, Chekhos, và một tác phẩm lớn về Sử Trung Quốc.
(Theo từ điển nhân vật lịchsử Việt Nam - NXBKHXH)
Lời nói đầu của Nguyễn Hiến Lê
Tôi viết tập này chủ ý để hướng dẫn các bạn muốn tìm hiểu triết lý trong Kinh Dịch, tức vũ
trụ quan, nhất là nhân sinh quan, cách sử thế trong Kinh Dịch mà tôi gọi là Đạo Dịch, đạo
của bậc chính nhân quân tử thời xưa .
Vì vậy tôi bỏ bớt phần bói tóan, huyền bí và rán trình bày một cách có hệ thống, sáng sủa
tư tưởng của cố nhân.
Mặc dầu vậy, sách vẫn khó đọc, và để cho các bạn đỡ tốn công, tôi xin có ít lời hướng dẫn
dưới đây.
Việc đầu tiên là đọc Bảng Mục Lục để biết qua ba nội dung của sách .
Sách gồm 2 phần:
- Phần 1: Giới thiệu, có 6 chương, từ I đến VI.
- Phần II: Kinh và truyện: Kinh thì tôi dịch tròn 64 quẻ, Truyện thì chỉ dịch Hệ từ truyện.
Phần I - Chương I và II quan trọng, bạn nên đọc kỹ:
- Chương III đọc để nhớ và hiểu được ý nghĩ Kinh Dịch.
- Chương IV rất quan trọng, nên đọc rất kỹ, chỗ nào không hiểu thì đánh đấu ở ngòai lề để
sau coi lại.
Đọc xong Chương IV rồi, nên hãy tạm nhảy chương V và VI mà đọc tiếp ngay bản dịch 64
quẻ trong phần II.
Mỗi ngày chỉ đọc 2,3 quẻ thôi, đọc kỹ cho hiểu . Đọc được độ mươi quẻ thì những quẻ sau
sẽ thấy dễ hiểu.
Chương IV giúp bạn hiểu 64 quẻ, mà 64 quẻ cũng giúp bạn hiểu thêm chương IV, vì vậy
trong khi đọc 64 quẻ bạn nên thường tra lại chương IV, lúc đó bạn sẽ hiểu những chỗ đã
đánh dấu ở ngoài lề mà lần đầu tiên bạn chưa hiểu .
Công việc đó xong rồi, bạn đọc kỹ Chương V và VI Phần I và lúc này bạn hiểu được ý nghĩa
trong hai chương quan trọng đó, nhất là Chương VI. Đọc lần đầu dù kỹ tới đâu cũng chưa
gọi là hiểu hết, nhất là chưa nhớ được gì nhiều .
Nghĩ một thời gian, bạn nên đọc lại lần thứ nhì, lần nầy mau hơn lần trước.
Rồi lâu lâu bạn nên coi lại những chỗ bạn cho là quan trọng cần nhớ .
Muốn hiểu thêm Kinh Dịch, bạn nên tìm đọc những sách tôi đã giới thiệu trong cuốn sách
nầy.
Cách tìm một quẻ.
Mỗi quẻ có số thứ tự của nó trong kinh, thành phần và tên.
Ví dụ: Quẻ (hình quẻ hai âm, hai dương, hai âm) số thứ tự là 62, thành phần là Lôi (hai âm,
một dương) ở trên, Sơn (một dương hai âm) ở dưới, tên là Tiểu Quá.
Chương 1 :
NGUỒN GỐC KINH DỊCH VÀ NỘI DUNG PHẦN KINH
NGUỒN GỐC:
Một sách bói mà thành sách triết.
Khắp thế giới có lẽ không có bộ sách nào kỳ dị như bộ Kinh Dịch.
Nó là một trong ba bộ kinh cổ nhất của Trung hoa, sau Kinh Thi và Kinh Thư, nhưng nguồn
gốc của nó - tức bát quái - thì có thể sớm hơn vào cuối đời Ân, 1.200 năm trước Tây Lịch.
Nó không do một người viết mà do nhiều người góp sức trong một ngàn năm, từ Văn Vương
nhà Chu mãi đến đầu đời Tây Hán nó mới có hình thức gần như hình thức ngày nay chúng ta
được biết từ Tây Hán đến nay, trên 2.000 năm nữa, thời nào cũng có người tìm hiểu nó
thêm, đem ý riêng của mình và tư tưởng của thời đại giọi vào nó, khiến cho ý nghĩa và công
dụng của nó mỗi ngày một nhiều và một xa nguồn gốc.
Do đó, không thể gọi nó là tác phẩm của một nhà nào cả, không phải của Khổng gia cũng
không phải của Lão gia, và Vũ Đồng, tác giả bộ Trung Quốc triết học đại cương (Thương vụ
ấn thư quán) gọi nó là tác phẩm chung của một phái, phái Dịch học, mà những người trong
phái nầy gồm nhiều triết gia xu hướng khác nhau.
Mới đầu nó chỉ là sách bói, tới cuối đời Chu thành một sách triết lý tổng hợp những tư tưởng
về vũ trụ quan, nhân sinh quan của dân tộc Trung Hoa thời Tiên Tần; qua đời Hán nó bắt
đầu có màu sắc tượng số học, muốn giải thích vũ trụ bằng biểu tượng và số mục, tới đời
Ngũ Đại nó được dùng trong môn lý số đời Tống nó thành lý học; ngày nay một số nhà bác
học phương Tây như C.G Jung tâm lý gia nổi danh của Đức và Raymond de Becker (Pháp)
muốn dùng nó để phân tích tiềm thức con người, coi nó là một phương pháp phân tâm học.
Điều kỳ dị nhất là môn "dịch học" nó chỉ dựng trên thuyết âm dương , trên một vạch liền
________ tượng trưng cho dương, một vạch đứt ___ ___ tượng trưng cho âm, hai vạch đó
chồng lên nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành ra tám hình bát quái, rồi tám hình bát
quái này lại chồng lẫn lên nhau thành sáu mươi bốn hình mới:Lục thập tứ quái .
Dùng sáu mươi bốn hình này, người Trung Hoa diễn được tất cả các quan niệm về vũ trụ, về
nhân sinh, từ những hiện tượng trên trời dưới đất, những luật thiên nhiên tới những đồ
dùng, những công việc thường ngày như trị nước, ra quân, trị nhà, cưới hỏi, ăn uống , xử
thế...
Các ông "Thánh" Trung Hoa đó quả thực có một sáng kiến mới mẻ, một sức tưởng tượng,
suy luận lạ lùng, khiến người phương Tây ngạc nhiên và có người Âu (J.Lavier) đã dùng một
vài quẻ để giải thích một vài hiện tượng khoa học, sự tiến triển của khoa học.
Sự kiện dùng hai vạch để giảng vũ trụ, xã hội đó thật ít ai quan niệm nổi, cho nên ngay
người Trung Hoa đã tạo ra nhiều truyền thuyết để giải thích nguồn gốc Kinh Dịch.
Truyền thuyết về Kinh Dịch.
Những truyền thuyết đó nhiều khi mâu thuẫn, vô lý, như huyền thoại, nhưng vì có nhiều
người tin chắc hoặc “đành phải chấp nhận vì không có thuyết nào hơn cho nên chúng ta cần
biết qua, chứ đi sâu thì theo tôi, chỉ mất thì giờ vô ích.
1. Truyền thuyết vua Phục Hy tạo ra bát quái:
Theo Từ Hải thì Phục Hy còn có tên là Bào Hy, Thái Hạo v.v. . . là một trong ba ông vua thời
Thái cổ, hai ông kia là Tọai Nhân, Thần Nông. Phục Hy dạy dân săn bắn, đánh cá, nuôi súc
vật, tạo ra bát quái và thư khế (văn tự, khế ước).
Không hiểu Phục Hy ở thế kỷ nào, có sách nói là thế kỷ 43, có sách nói là thế kỷ 34 trước
Tây Lịch ông làm vua 115 năm, truyền được 15 đời, rồi tới Tọai Nhân dạy dân dùi cây hay
cọ hai miếng gỗ với nhau mà lấy lửa. Thần Nông dạy làm ruộng.
Như vậy thì Phục Hy không phải là tên một người (cũng như Sào Thị, Tọai Nhân Thị, Thần
Nông Thị), chỉ là một tên người đời sau đặt ra để tượng trưng một thời đại, thời đại dân tộc
Trung Hoa còn ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn, hái lượm, chưa thể có văn tự được muốn
ghi chép việc gì thì dùng cách buộc nút (kết thằng) hoặc lấy đá nhọn gạch những vạch lên
một khúc cây như một số dân tộc lạc hậu hiện nay còn sống thưa thớt ở giữa Phi Châu, Úc
Châu, Nam Mỹ Châu.
Nói bát quái thì có từ thời đó, cách thời chúng ta năm, sáu ngàn năm thì nó chỉ có thể là
những vạch để đánh dấu cho dễ nhớ, như những con số thôi, chứ không có gì khác (chúng
tôi sẽ trở lại điểm này ở đoạn sau)
a) Thiên Hệ từ thượng truyện – Chương 11:
- Ở sông Hà hiện ra bức đồ, ở sông Lạc hiện ra trang chữ, thánh nhân phỏng theo” (Hà Xuất
Đồ, Lạc Xuất Thư, Thánh Nhân Tắc Chi)
Tuy đọan đó không nói rõ, nhưng đặt nó vào toàn thiên thì phải hiểu rằng Phục Hy phỏng
theo bức đồ hiện ra ở sông Hà, trang chữ hiện ra ở Sông Lạc để vạch ra bát quái.
b) Thiên Hệ tử hạ truyện, Chương 2 chép rõ hơn:
* Ngày xưa họ Bào Hi (tức Phục Hi) cai trị thiên hạ , ngửng lên thì xem các hình tượng trên
trời, cúi xuống thì xem các phép tắc ở dưới đất, xem các văn vẻ của chim muông cùng
những thích nghi với trời đất (của từng miền), gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy ở vật, rồi
làm ra bát quái, để thông suốt các đức thần minh và điều hòa cái tình của vạn vật (Cổ giả
Bào – có người đọc là Bao Hi thị chi vương thiên hạ dã, ngưỡng tắc quan tượng ư thiên, phủ
tắc quan pháp ư địa, quan điểu thú chi văn dữ thiên địa chi nghi, cận thủ chư thân, viễn thủ
chư vật, ư thị thủy tác bát quái dĩ thông thần minh chí đức, dĩ loại vạn vật chí tình).
Như vậy là ngay trong Kinh Dịch đã có hai thuyết mâu thuẫn nhau rồi, Âu dương Tu, một
văn hào đời Bắc Tống đã vạch ra chỗ mâu thuẫn đó trong tập: Dịch đồng Tử Vấn. Đại ý ông
bảo: Đọan trên (chương 11 thượng truyện) nói rằng bát quái là do trời sai long mã ở sông
Hà đội lên mà giao cho Phục Hi, không phải do người làm ra (phi nhân chi sở vi, thị thiên chi
sở giáng đã), đọan dưới (chương 2 hạ truyện) lại bảo bát quái là do người làm (Phục Hi xem
các hiện tượng trên trời dưới đất mà vạch ra), bức đồ hiện trên sông Hà không dự gì tới (thị
nhân chi sở vi, hà đồ bất dự yên), vậy thì biết tin thuyết nào?
Câu “ “Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, thánh nhân tắc chi” dẫn trên lại mù mờ nữa, vì chữ thánh
nhân đó không chỉ rõ ai, một ông thánh hay nhiều ông thánh ?
Có người hiểu là 2 ông thánh. Phục Hy và vua Vũ nhà Hạ (2-205-2.197)
Do đó phát sinh ra tới 4 thuyết:
- Phục Hy xem xét các hiện tượng trên trời mà vạch ra bát quái (người đời sau gọi là Tiên
thiên Bát Quái)
- Phục Hy phỏng theo Hà Đồ (bức đồ hiện ở sông Hà) mà vạch ra bát quái.
- Phục Hy phỏng theo cả Hà Đồ lẫn Lạc Thư ( trang chữ xuất hiện ở sông Lạc) mà vạch ra
bát quái, Hà Đồ và Lạc Thư vậy là cùng xuất hiện trong đời Phục Hi (thuyết này của Du
Diễm đời Tống).
Lạc Thư không xuất hiện ở đời Phục Hy mà xuất hiện trong đời vua Vũ nhà Hạ, nghĩa là
khoảng một hai ngàn năm sau, và vua Vũ phỏng theo nó để vạch ra bát quái (người đời sau
gọi là Hậu thiên bát quái). Bát quái này cũng y hệt bát quái trên, chỉ có vị trí các hình là
khác thôi (tôi sẽ xét trong một đọan sau) và để đặt ra Cửu trù hồng phạm, tức chín lọai về
qui phạm lớn của trời đất, nói cho dễ hiểu là chín phương pháp để cai trị thiên hạ. Nhưng
Cửu trù hồng phạm chẳng liên quan gì tới Kinh Dịch cả.
Về Hà Đồ, truyền thuyết bảo rằng đời Phục Hy có một con Long mã (lòai ngựa thần, hình
thù như con rồng mình xanh lục có vằn đỏ, xuất hiện trên sông Hòang Hà, đội một bản dồ,
bản đồ đó là sách mệnh trời ban cho Phục Hi để trị thiên hạ. Những đời sau mỗi khi có thánh
vương xuất hiện như đời vua Nghêu, vua Thuấn . . .đều được trời ban cho Hà Đồ.
Còn về Lạc Thư thì trong khi vua Vũ trị thủy, thấy một con rùa thần cũng do trời sai xuống
hiện lên ở sông Lạc – một chi nhánh của sông Hòang Hà – trên lưng có những nét đếm từ 1
đến 9.
Thuyết Hà Đồ chắc khá phổ biến ở đời Chu, chính Khổng tử cũng tin. Luận ngữ, Thiên tử
Hản, bài 8, ông than thở với môn đồ: “chim Phượng chẳng đến, bức đồ chẳng hiện trên sông
(Hòang) Hà, ta hết hy vọng rồi” (Phượng điểu bất chí, Hà bất xuất đồ, ngô dĩ hỉ phù!” Chim
Phụng và Hà đồ mà xuất hiện là điềm thánh vương ra đời, Khổng tử không thấy hai vật đó,
cho rằng thánh vương không ra đời, đạo của ông không sao thi hành được. Có thể ông cũng
tin rằng đời Phục Hi có Hà Đồ xuất hiện, còn như ông có cho rằng Phục Hi phỏng theo Hà đồ
mà vạch ra bát quái hay không thì không có gì làm chắc (trong một chương sau, chúng tôi
sẽ chỉ rõ Hệ từ truyện thượng và hạ không phải của ông viết).
Hình Hà đồ và Lạc Thư hồi mới xuất hiện ra sao, không ai biết. Người ta bảo nó mất từ thế
kỷ thứ VII trước TL. (nghĩa là trước thời Khổng tử hơn 100 năm), mãi tới thời Hán Vũ Đế
(149-86) tức năm thế kỷ sau, một người cháu đời thứ mười hai của Khổng Tử, là Khổng An
Quốc, một học giả, đại thần của Vũ Để không hiểu căn cứ vào đâu để lập 2 hình đó, truyền
lại đời sau, rồi lại mãi đến đời Tống Huy Tôn (1101-1125) khoảng mười hai thế kỷ sau
Khổng An Quốc, hai hình đó mới được in trên sách như chúng ta đã thấy dưới đây:
Hà Đồ Lạc Thư
Cả trên hai hình đó (gọi chung và tắt là đồ thư) những vòng tròn trắng đều là số dương (lẻ),
những vòng tròn đen đều là số âm (chẳn)
- Trên hình Hà Đồ, hàng a và b, mỗi hàng có 5 vòng đen, cộng với nhau thành 10, 10 là số
âm.
- Chúng ta nhận thấy có những số lẻ: 1, 3, 5, 7, 9 cộng lại là 25, và những số chẳn: 2. 4. 6.
8. 10 cộng cả lại là 30.
- Cộng 25 (lẻ) với 30 (chẳn) được 55.
- Trên hình Lạc Thư, có những số lẻ: 1, 3, 5, 7, 9, cộng cả lại là 25, y như trên Hà Đồ, còn
số chẳng chỉ có 2, 4, 6, 8, cộng là 20.
- Cộng 25 (lẻ) với 20 (chẳn) được 45.
Những vòng tròn (có người gọi là nét) trên Lạc Thư được bố trí trên mình con rúa thần như
sau: đầu đội chín, đuôi một, hai vai (hay hai chân trước) 2 và 4, hai chân sau 6 và 8, giữa
lưng 5.
Chúng tôi xin độc giả để ý: long mã là một con vật trong huyền thọai, con rùa thần mà
mang trên lưng những vòng tròn đen trắng như vậy cũng là một huyền thọai nữa! Sao 2
hình đó giống nhau thế: Số dương (lẻ) đều là 25, ở giữa đều có số 5, những vòng tròn y hệt
nhau mà sao hình bên phải không gọi là đồ như hình bên trái, lại gọi là thư, nhất là so sánh
những hình đó với hình bát quái thì dù giàu tưởng tới mấy cũng không thể bảo rằng bát quái
phỏng theo hai hình đó được.
Điều này cũng rất đáng để ý nữa. Trên hình Lạc Thư, đến từ trái qua phải ta thấy:
- Hàng trên có những số: 4 (vòng đen), 9 (vòng trắng), 2 (vòng đen).
- Hàng giữa có những số: 3 (vòng trắng), 5 (vòng trắng) 7 (vòng trắng).
- Hàng dưới có những số: 8 (vòng đen), 1 (vòng trắng), 6 (vòng đen).
- Ta thử sắp xếp những con số đó thành một hình vuông như dưới đây (gọi là hình ma
phương)
492
357
816
Rồi cộng những số theo hàng ngang:
Hàng trên: 4 + 9 + 2 = 15
Hàng giữa: 3 + 5 + 7 = 15
Hàng dưới: 8 + 1 + 6 = 15
Cộng theo hàng dọc:
Hàng bên trái: 4 + 3 + 8 = 15
Hàng giữa : 9 + 5 + 1 = 15
Hàng bên phải: 2 + 7 + 6 = 15
Cộng theo hai đường chéo của hình vuông cũng được 4 + 5 + 6 = 15 và 2 + 5 + 8 = 15
Hình vuông kỳ dị đó, người phương Tây cũng đã tìm thấy từ thời cổ, dùng nó làm bùa, cho
nên gọi nó là Carré magique: ma phương.
Trong thiên nhiên đâu có hình như vậy, phải là do óc sáng tạo của lòai người.
Rõ ràng là Khổng An Quốc hay một người nào khác đã bịa ra để cố giảng vũ trụ bằng những
con số, tạo nên môn tượng số học cực kỳ huyền bí.
Do đó mà đời sau có người lớn tiếng mắng Khổng An Quốc là kẻ có tội nặng nhất với thánh
nhân (ám chỉ Khổng tử, cụ tổ 12 đời của Khổng An quốc) , đã làm cho kinh Dịch mất ý
nghĩa triết lý sâu xa đi mà biến nó thành một tác phẩm vô nghĩa lý. Thực ra người đầu tiên
có tôi là kẻ viết Chương 9 Hệ từ thượng truyền kia (coi phần dịch ở sau). Khổng An Quốc đã
căn cứ vào đó chứ không hòan tòan phịa ra hết.
Nhưng bị người nầy mắng thì lại được người khác khen là có công với Dịch học, làm cho ý
nghĩa Kinh Dịch thêm phong phú và Kinh Dịch nhờ đó một phần đã thành một kỳ thư.
Ý KIẾN MỘT SỐ HỌC GIẢ NGÀY NAY
Thuyết Phục Hi phỏng theo Hà Đồ, Lạc Thư mà vạch bát quái nhất định là không thể tin
được, mà thuyết ông xem xét các hình tượng trên trời, các phép tắc dưới đất, các văn vẻ
của chim muông thì cũng rất khó chấp nhận.
Từ đầu thế kỷ đến nay, người ta đã đào được ở An Dương (tỉnh Hà Nam ngày nay) hằng vạn
hằng ức giáp cốt (mai, yếm rùa và xương vai, xương chậu của trâu, bò, ngựa . . .) đời
Thương (1766-1401), trên thấy khắc nhiều quẻ bói. Đây là một quẻ trích trong cuốn East
Asia – The Great tradition (Modern Asia éditions – Tokyo 1962)
Ba chữ bên trái là ba chữ giữa là hai chữ bên phải là hai chữ ở dưới cùng là
Ý nghĩa là: Ngày Tân mão hỏi qủy thần (bói): ngày hôm nay, ngày Tân, có mưa hay không
mưa?
Chúng ta thấy, chữ thời nay còn phảng phất như chữ thời đó, nhất là những chữ :
Nhưng trên nhữnggiáp cốt đó và cả trên những đồ đồng đời Thương, tuyệt nhiên không thấy
hình bát quái. Sự thực là từ đời Thương về trước chưa có bát quái. Người đời Thương chỉ mới
biết lối bói bằng yếm rùa gọi là bốc 卜. người ta lấy yếm chữ không phải mai con rùa (vì
yếm mềm hơn, dễ nứt hơn mai), dùng mủi nhọn đâm vào những chỗ lỏm, rồi hơ trên lửa
những chỗ lõm đó nứt ra, rồi tùy vết nứt có hình ra sao mà đóan quẻ tốt hay xấu.
Cuối đời Ân hay qua đời Chu người ta mới tìm được cách bói bằng cỏ thi (tiếng khoa học gọi
là Achillea sbirica), một thứ cây nhỏ cao khỏang một thước như cây cúc, có hoa trắng hoặc
hồng nhạt. Cách bói đó gọi là phệ 筮 và dùng bát quái mà đóan, giản dị hơn cách bói bằng
yếm rùa. Vì hình nét nứt trên yếm rùa đã không có hạn lại khó biện giải, còn những quẻ và
hào trong phép bói bằng cỏ thi đã có hạn, lại dưới mỗi quẻ, mỗi hào có lời đóan sẵn, nhất
định, khi bói gặp quẻ nào, hào nào, cứ theo lời đóan sẳn đó mà suy luận, công việc dễ dàng
hơn nhiều. Vì vậy mà phép bói đo mới đầu gọi là dị 易: dễ dàng. Chữ dị này với chữ dịch là
một. Về sau, không biết từ thời nào mới gọi là dịch.
Theo thuyết đó của Dư Vĩnh Lương trong tập san Nghiên cứu Lịch sử ngôn ngữ của Trung
Ương nghiên cứu viện (Phùng Hữu Lan dẫn trongTrung quốc Triết học sử - Chương 15), thì
bát quái chỉ có thể xuất hiện trong đời Ân, từ cuối đời thương đến đầu đời Chu, và bát quái
tạo ra chỉ để bói.
Lại còn một thuyết mới nữa của Trần Thực am trong tập Tiểu Học thức tự Giáo bản do
Nghiêm Linh Phong dẫn trong tập Dịch Học Tân Luận (Chính trung thư cục ấn hành – Đài
Bắc 1971) Trần thực Am cho rằng bát quái chỉ là những con số thời xưa Trung hoa chưa
dùng thập tiến pháp (numération décimale), chưa đến mười chỉ 7 số thôi, tức chỉ dùng thất
tiến pháp.
1, 2, 3 , 4, 5 , 6, 7
Số 7 ngược lại với số 1 và địa vị của nó như địa vị số 10 trong thập tiến pháp, còn quẻ
(đòai) ngược lại với quẻ (cấn) số 2, là số mấy thì tôi không biết.
Họ Trần còn bảo vì dùng thất tiến pháp cho nên thời đó gọi bảy ngày là một tuần, cúng
người chết thì 7 tuần tức 49 ngày gọi là mãn thất; từ đời Ân, đời Chu trở đi mới dùng thập
tiến pháp, và truy niệm người chết khi được 10 tuần (mỗi tuần 10 ngày) tức 100 ngày. Đời
sau, người Trung Hoa truy niệm theo cả hai cách đó.
Thuyết này mới quá, ngược lại với thuyết trên vì – vì nếu vậy thì bát quái phải có từ đời
Thương, trở về trước, sao không thấy trên các giáp cốt ? Vả lại nếu hình trên giáp cốt chúng
tôi đã sao lại ở trang trên đúng là ở đời Thương thì đời đó, người Trung đã biết kết hợp thập
can (giáp, ất, bính, đinh . . .quí) với thập nhị chi (ti, sửu, dẫn, mão .. .hợi) để chỉ ngày,
tháng và năm thì lẽ nào lại không biết thập tiến pháp ? Vì những lẽ đó mà chúng tôi chưa
dám tin Trần Thực Am.
Do Lưỡng nghi thành Tứ tượng rồi thành Bát quái.
Tóm lại, bát quái do ai tạo ra, từ thời nào, tới nay vẫn còn là một bí mật, sau này cũng
không chắc gì tìm ra được manh mối.
Bây giờ chúng ta cứ hãy tạm cho rằng nó có trước đời Văn Vương nhà Chu (thế kỷ XII tr.
T.L) và do một hay nhiều bộ óc siêu quần vô danh nào đó dùng hai vạch liền và đứt chồng
lên nhau, thay đổi lẫn nhau mà tạo nên.
Trong Đại Cương Triết Học Trung Quốc Thượng – tr.451, chúng tôi đã chỉ một cách chồng
các vạch trích trong Kinh thế chỉ yếu của Sái Trầm.
Dưới đây là một cách nữa.
Mới đầu chỉ có lưỡng nghi là dương (vạch liền) và âm (vạch đứt)
,
Chúng ta lấy dương chồng lên dương , rồi lấy âm chồng lên dương, được hai hình tượng
,
Bên đây cũng vậy, chúng ta lấy âm chồng lên âm, rồi lấy dương chồng lên âm, được hai
hình tượng nữa:
,
(vạch dương, vạch dương)1
(vạch âm, Vạch dương)2
(vạch âm, vạch âm)3
(Vạch dương, Vạch âm)4
Như vậy được bốn hình tượng, gọi là tứ tượng.
Tứ tượng có tên là thái dương, thiếu dương, thái âm, thiếu âm.
Chúng tôi theo Vũ Đồng gọi hình 1 là thái dương, hình 2 là thiếu dương, hình 3 là thái âm ,
hình 4 là thiếu âm. Do lẽ chúng tôi đã dẫn trong Đại Cương Triết học Trung Quốc – Thượng,
tr 171, nhiều sách cho hình 4 là thiếu dương, hình 2 là thiếu âm
Tứ tượng tượng trưng cho nhật, nguyệt, tinh thần (mặt trời, mặt trăng, định tinh và hành
tinh .)
Vì trong tập này chúng tôi chỉ chú trọng đến bát quái, đến phần triết học, nên không xét về
tứ tượng thuộc về thiên văn học.
Sau cùng chúng ta lấy dương lần lượt chồng lên cả bốn hình trên, theo thứ tự 1, 2, 3, 4
Rồi lấy âm lần lượt chồng lên cũng cả bốn hình đó theo thứ tự 3, 4, 1, 2 được:
Càn 乾 (I), ly 離 (II), Cấn 艮 (III), Tốn 巽 (IV) ,
Khôn 坤 (V) , Khảm 坎 (VI), Ðoài 兌 (VII) , Chấn 震 (VIII)
Như vậy được hết thảy 8 hình gọi là bát quái, tám quẻ. Mỗi quẻ có 3 vạch gọi là 3 hào xuất
hiện lần lần từ dưới lên, cho nên khi gọi tên cũng khi đóan quẻ, phải đếm, xét từ dưới lên,
hào dưới cũng là hào 1, rồi lên hào 2, hào 3.
: Càn (hay kiền) vi thiên là trời có đức cứng mạnh, là đàn ông.
: khôn vi địa là đất, có đức nhu thuận, là đàn bà.
: li vi hỏa là lửa, sáng.
: Khảm vi thủy là nước, hiểm trở.
: cấn vi sơn là núi, yên tĩnh.
: đoái (hay đoài) vi trạch là chầm(đầm), vui vẻ.
: tốn vi phong là gió, vào.
: chấn vi lôi là sấm, động
Tám quẻ còn nhiều ý nghĩa nữa, như ý nghĩa về các người trong nhà, về phương hướng,
màu sắc, lọai vật . . . , nhưng chúng ta hãy biết bấy nhiêu thôi.
Điều cần nhất là các bạn trẻ phải thuộc rõ 8 hình trên, hễ trông thấy hình nào, chẳng hạn
hình (Tốn) thì phải gọi được tên của nó, “vì tốn vi phong”, ngược lại hể nghe thấy nói quẻ
tốn, hay chỉ nghe thấy nói phong, là phải vẽ ngay được hình nó.
Ngày xưa, nhà Nho dùng một thuật để nhớ, là học thuộc lòng 8 câu dưới đây:
Càn tam liền (ba vạch liền)
Khôn lục đọan (sáu vạch đứt)
Chấn ngưởng vu (bát để ngửa)
Cấn Phúc uyển (chén để úp)
Khảm trung mãn (đầy ở trong)
Li trung hư (rông ở trong)
Đòai thượng khuyết (hở trên)
Tốn hạ đoạn (đứt dưới)
Những bạn nào không biết chữ Hán có thể theo cách này của tôi:
Trước hết chúng ta bỏ quẻ Càn và quẻ Khôn đi vì ai cũng cũng nhớ ngay rồi, còn lại 6 quẻ
mà có 1 hào âm (một vạch đứt), tức quẻ Li , quẻ đòai , quẻ tốn , 3 quẻ còn lại khảm , cấn ,
chấn đều có một hào dương một vạch liền.
Chúng ta chỉ cần nhớ vị trí ba vạch đứt trong 3 quẻ có 1 hào âm thôi.
Quẻ Li là lửa thì vạch đứt ở giữa, như hình miệng lò.
Quẻ Đòai là chầm (đầm) thì vạch đứt ở trên cùng, như chỗ trũng trên mặt đất .
Quẻ tốn là gió thì vạch đứt tất phải ở dưới cùng . Vạch đứt, âm đó tượng trưng sự mềm mại,
dịu dàng của gió.
Nhớ như vậy rồi thì vẽ được ba quẻ đó vì hai hào kia của mỗi quẻ là vạch liền (dương).
Vẽ được 3 quẻ đó rồi thì vẽ được ba quẻ trái với chúng về ý nghĩa cũng như về các vạch:
Khảm (nước) trái với (li (lửa), thì gồm một vạch liền ở giữa còn lại hai vạch kia đứt
Cấn (núi) trái với Đòai (chằm) núi thì nổi lên trên mặt đất, chằm thì trũng xuống – vạch liền
ở trên cùng.
Chấn (sấm): trái với Tốn (gió) – Sấm động mạnh, gió thổi nhẹ - vạch liền ở dưới cùng
Tiên thiên và hậu thiên bát quái:
Tương truyền là tám quẻ mới đầu Phục Hi sắp theo vòng tròn hình I bên trái, rồi sau Văn
vương sắp lại theo hình II
Hình I : Tiên thiên bát quái
Hình II: Hậu thiên bát qúai
Thuyết đó chưa tin được : không có gì chứng rằng bát quái trước thời Văn Vương có phải
sắp như hình I không, mà trong phần kinh của Chu dịch cũng không có chỗ nào nói tới việc
Văn Vương sắp lại bát quái.
Chỉ trong phần truyện (Thuyết quái truyện, Chương III) chúng ta thấy câu này: “Trời và đất
vị trí định rồi, cái khí (khí lực) của núi và chằm thông với nhau, sấm gió nổi lên với nhau,
nước và lửa chẳng diệt nhau, tám quẻ cùng giao với nhau (Thiên địa định vi, sơn trạch
thông khí, lôi phong tương bạc thủy bất tương xạ, bát quái tương thác).
Trong đọan đó tác giả sắp bát quái thành từng cặp trái nhau như trong hình I: càn với khôn,
cấn với đòai, chấn với tốn, li với khảm.
Nhưng trong Chương V cũng thuyết quái truyện lại có câu “đế xuất hồ chấn”: Vị chủ tể trên
trời xuất hiện ở phương chấn, thì lại hợp với hình II vì hình này đặt chấn ở phương đông
(phương mặt trời mọc) còn hình I đặt chấn ở đông bắc (chúng ta nên nhớ trên các bản đồ
thời cổ của Trung Hoa, bốn phương đặt ngược với bản đồ ngày nay nghĩa là họ đặt bắc ở
dưới, nam ở trên, đông ở bên trái, tây ở bên mặt).
Hình I gọi là tiên thiên bát quái, hình II là hậu thiên bát quái. Hai tên đó không có trong
Kinh Dịch, hiển nhiên là do người đời sau, hoặc một đời Hán, hoặc Thiệu Khang Tiết đặt ra.
Tiên Thiên bát quái có nghĩa là bát quái tượng trưng vũ trụ (thiên) hồi đầu, hậu thiên bát
quái tượng trưng vũ trụ hồi sau. Hồi đầu là hồi nào? Hồi sau là hồi nào? Không ai biết chắc.
Có người giảng hồi đầu là hồi vũ trụ còn vô hình, hồi sau là hồi vũ trụ đã thành hình. Vô lý:
khi vũ trụ còn vô hình thì sao đã có núi, có chằm?
Có người lại giảng tiên thiên bát quái là những hiện tượng xảy ra trên các thiên thể (nghĩa là
khi vũ trụ đã thành hình), còn hậu thiên là những hiện tượng ở trên mặt đất (Bửu Cầm: Tìm
hiểu Kinh Dịch – Sài gòn – 1957) . Vậy là trên các thiên thể cũng có trời, có đất, có núi,
chằm . . . như trên trái đất ?
Có người đem thiên văn học của phương Tây mà giảng tiên thiên bát quái, chẳng hạn bảo
Càn gồm ba hào dương, tòan là dương khí, sáng rực rỡ chính là một biển lửa, một định tinh,
khôn có ba hào âm, tòan khí âm, đen lạnh, “có thể ví các sao đen tối của nhà thiên văn học
Emile Belot” v.v. (Bùi Thị Bích Trâm – Thiên Văn – Huế 1942 – do Nguyễn Duy Cần dẫn
trong dịch học tinh hoa_Saigon 1973)
Từ khi mộy số học giả đời Hán dùng Kinh Dịch để giảng về thiên văn, nguồn gốc vũ trụ,
nhất là từ khi có hai hình tiên thiên và hậu thiên bát quái, chắc đã có nhiều người căn cứ
vào hai hình ấy, rồi vào hai hình Hà Đồ, Lạc Thư mà lập ra những thuyết mới sau này khoa
học thiên văn của phương Tây có một phát kiến nào mới thì tất sẽ có những người giảng lại,
tiền thiên và hậu thiên cho hợp với những phát kiến mới. Chỉ có tám hình hai mươi bốn vạch
liền và đứt, cho nên sẽ rất dễ gây sự tưởng tượng của con người.
So sánh hai hình I và II, chúng tôi thấy vị trí của các quẻ thay đổi hết: hình I, Càn ở Nam,
Khôn ở Bắc, L ở Đông, Khảm ở Tây… Hình II, Càn ở Tây Bắc,Khôn ở Tây Nam, Li ở nam,
khảm ở bắc…
Nếu quả là do văn Vương sắp lại bát quái thi tại sao ông lại thay đổi như vậy? Ông để Li ở
phương Nam, có lý, mà để Khảm ở phương Bắc, kể như cũng có lý. Vì Khảm trái với Li, nước
trái với lửa, Bắc trái với Nam. Nhưng tại sao ông không cho Càn đối với Khôn, như trong
hình I? mà cho nó đố với Tốn? và khôn đối với Cấn…
Chúng tôi thú thật không hiểu nổi. Kinh Dịch không giảng gì cho ta về những điểm đó cả.
Trong Kinh Dịch còn có nhiều điều khó hiểu nữa, chúng ta đành phải chấp nhận thôi(1).
Trùng quái:
Chúng ta biết lưỡng nghi chồng lên nhau một lần thành tứ tượng, chồng lên một lần nữa là
bát quái.
Chỉ có 8 quẻ với 24 hào thì không thể diễn được nhiều hiện tượng, sự việc, nên lại phải
chồng lên thêm một lần nữa. lần này không lấy 1 vạch âm hay dương như lần thứ nhì, mà
lấy trọn một quẻ chồng lên tất cả 8 quẻ; chẳng hạn thấy quẻ Càn chồng lên càn và 7 quẻ
kia, lấy quẻ Li chồng lên Li và cả 7 quẻ kia, như vậy mỗi quẻ thành ra 8 quẻ mới ,tám quẻ
thành 64 quẻ mới, mỗi quẻ mới gồm 6 hào, cộng là 64 x 6 : 384 hào, tạm đủ để diễn được
khá nhiều hiện tượng ,sự việc rồi. Tới đây ngừng, vì nếu chồng thêm nữa thì nhiều quá , sẽ
rối như bòng bong.
Sáu mươi bốn quẻ mới này gọi là trùng quái (quẻ trùng) để phân biết với tám quẻ nguyên
thủy gọi là đơn quái (quẻ đơn).
Ai làm công việc trùng quái đó? Có bốn thuyế:
Vương Bật (đời Ngụy) cho rằng Phục Hi tạo ra bát quái rồi tự mình trùng quái.
Trịnh Huyền (đời Hán) cho rằng Thần Nông trùng quái.
Tôn Thịnh (không rõ đời nào) cho là vua Vũ nhà Hạ.
Tư Mã Thiên (đời Hán) cho là Văn Vương.
Hai thuyết cuối trái với Hệ từ, vì theo Hệ từ hạ truyện, chương II thì:
Bào Hi mất rồi, Thần Nông lên thay (….) lấy hình tượng ở quẻ Phệ hạp (tức một trong 64
quẻ trùng) mà nảy ra ý cho dân họp chợ, trao đổi sản vật. Vậy là đời Thần nông đã có trùng
quái rồi, đời Hạ và đời Chu sau Thần Nông cả mấy ngàn năm, không lẽ còn làm việc trùng
quái nữa.
Mà thuyết thứ nhì cũng khó tin. Thần Nông làm công việc trùng quái rồi lại do hình tượng và
tên một quẻ ông đã tạo ra (quẻ Phệ Hạp) mà nẩy ra ý họp chợ? (coi phần II – Hệ từ hạ,
cuối Chương II)
Rốt cuộc, nếu tin ở Hệ từ thì phải chấp nhận thuyết thứ nhất: Chính phục Hi tạo ra 8 đơn
quái rồi thấy nó không đủ để thông thần minh chi đức, lọai vạn vật chi tình (Hệ từ hạ -
Chương II), nên tự trùng, tức tự chồng các quẻ lên nhau thành 64 trùng quái.
Nhưng Phục Hi ( và cả Thần Nông nữa) đều là những nhân vật huyền thọai và như trên
chúng ta đã nói, bát quái không thể có từ đời Thương trở về trước được. Vậy thì chỉ có thể
do một người nào đó trong đời Ân tạo ra bát quái rồi có lẽ Văn Vương đời Chu làm công việc
trùng quái. Thuyết này trái với Hệ từ truyện thật nhưng Hệ từ truyện đáng tin hay không?
Đa số các nhà Dịch học đời sau chấp nhận thuyết 1 và thuyết 4, cho nên chúng ta thấy họ
dùng cả tiên thiên bát quái (họ cho là của Phục HI) và hậu thiên bát quái của Văn Vương, do
đó có hai cách trùng quái, một cách theo tiên thiên bát quái, một cách theo hậu thiên bát
quái.
Theo Tiên thiên bát quái, có thể bắt đầu từ quẻ Càn hay quẻ khôn. Dù bắt đầu từ quẻ nào
thì cách chồng quẻ cũng như nhau: mỗi đầu theo chiều ngược kim đồng hồ, gặp quẻ Càn
(nếu bắt đầu từ quẻ khôn) hoặc gặp quẻ Khôn (nếu bắt đầu từ quẻ Càn) thì ngừng lại, rồi
quay trở lại bắt tiếp từ quẻ bên cạnh Càn hay Khôn mà theo chiều thuận kim đồng hồ,
chồng nốt cho hết tám quẻ.
Đồ “Phương vị 64 quẻ của Phục HI – coi các trang ở sau – bắt đầu từ quẻ khôn (quẻ ở đầu
hàng trên hình vuông ở giữa đó), cho nên dưới đây tôi cũng chồng theo cách đó.
KHÔN : chồng lên khôn thành quẻ thuần khôn (quẻ số O trên đồ “Phương Vị” – Số 0 này do
tôi đánh, theo Leibniz, coi các trang ở sau độc giả sẽ hiểu tại sao).
CẤN: chồng lên khôn thành quẻ số 1 trên đồ.
KHẢM : -nt- 2 -nt-
TỐN : -nt- 3 -nt-
Tới đây bỏ chiều ngược kim đồng hồ, bắt từ quẻ Chấn (ở bên cạnh Khôn) mà theo chiều
thuận kim đồng hồ để chồng tiếp:
CHẤN: chồng lên khôn thàn quẻ số 4.
LI : -nt- 5.
ĐÒAI: -nt- 6.
CÀN : -nt- 7, tức quẻ Thiên Địa Bĩ.
(Càn là thiên, Khôn là địa, cho nên gọi là Thiên Địa, còn Bĩ là tên quẻ cho ý nghĩa của quẻ:
bế tắc, như bĩ trong “bỉ cực thái lai”
Thế là hết một vòng bắt đầu là Khôn, cuối cùng là Càn. Một quẻ Khôn đẻ ra tám quẻ đứng
hàng đầu trên hình ở giữa đồ Phương vị, từ số 0 đến số 7.
Qua vòng thứ nhì, cũng bắt đầu từ quẻ Khôn mà chồng theo hai chiều: chiều ngược: Khôn
chồng lên Cấn , Cấn lên Cấn, Khản lên Cấn, Tốn lên Cấn; rồi theo chiều thuận: chấn lên
Cấn, Li lên Cấn, Đóai lên Cấn, càn lên Cấn. Đựơc 8 quẻ nữa từ số 8 đến số 15 trên hàng nhì
ở giữa hình.
Như vậy chồng 8 vòng, được 8 hàng, 64 quẻ, quẻ cuối cùng số 63 là quẻ Thuần Càn.
Trùng quái theo cách thứ nhì, dùng hậu thiên bát quái thì bắt đầu từ quẻ Càn rồi tuần tự
theo chiều thuận kim đồng hồ, chồng:
Quẻ Càn lên càn, được quẻ Thuần Càn.
Quẻ Khảm lên càn, được quẻ Sơn Thiên Đại Súc, v.v. . tới quẻ cuối cùng là qủe Đòai, được
quẻ Trạch Thiên Quải.
Như vậy là hết một vòng, được một nhóm 8 trùng quái.
Qua vòng thứ nhì, bắt đầu từ quẻ Khảm, lại chồng:
Quẻ Càn lên, được quẻ Thiên Thủy Tụng.
Quẻ Khảm lên (vẫn theo chiều thuận) được quẻ Thuần khảm.
Quẻ Cấn lên, được quẻ Sơn Thủy Mông v.v. . tới quẻ Đòai, được quẻ Trạch Thủy Khốn.
Như vậy là hết vòng thứ nhì, được một nhóm 8 trùng quái nữa.
Chồng hết 8 vòng ,được 64 trùng quái.
Cách chồng này giản dị hơn cách trên, được nhiều sách dẫn, mặc dầu không nói rõ là của
Văn Vương, như vì dùng thứ tự các quẻ trong hậu thiên bát quái của Văn Vương, nên chúng
tôi gọi là sách của Văn Vương.
Cuối sách này có một bảng đủ 64 quẻ chồng theo sách đó (coi Phụ Lục – Đồ biểu 64 quẻ).
Chồng theo cách nào thì kết quả cũng như nhau, và cũng có 8 quẻ thuần, gọi là bát thuần
(thuần nghĩa là Càn lại chồng lên Càn, Khảm lại chồng lên Khảm, Cấn lại chồng lên Cấn .)
Ngòai ra , các sách bói và lý số còn có một cách sắp quẻ theo từng nhóm nữa như:
Nhóm Trùng càn gồm Thuần Càn, Thiên Phong Cấu, Thiên Sơn Độn, Thiên Địa Bĩ, Phong Địa
Quan, Sơn Địa Bác, Hỏa Địa Tấn, Hỏa Thiên Đại hữu.
1 Thuần càn ䷀
2 Thiên PhongCấu ䷀
3 Thiên Sơn Độn ䷀
4 Thiên Địa Bỉ ䷀
5 Phong Đại Quán ䷀
6 Sơn Địa Bác ䷀
7 Hỏa Địa Tấn ䷀
8 Hỏa Thiên Đại Hữu ䷀
Chúng ta nhận xét sự biến đổi của các hào dương thành âm theo thứ tự: từ dưới lên, lên
đến hào 5 (ở quẻ Sơn Địa Bác) thì biến ngược trở xuống, âm thành dương.
- Nhóm Trùng Khảm gồm Thuần Khảm, Thủy Trạch Tiết, Thủy Lôi Truân, Thủy Hỏa Kí Tế,
Trạch Hỏa Cách, Lôi Phong Hằng, Địa Hỏa Minh Di, Địa Thủy sư v.v. . .
- Trong mỗi nhóm như vậy, quẻ Thuần là quẻ cái, còn 7 quẻ kia là quẻ con. Cách này chắc
xuất hiện trễ, từ đời Ngũ Đại hay đời Tống và chỉ dùng vào việc bói tóan hay đóan số, nên
chúng ta biết qua vậy thôi, không cần nhớ.
Nội Quái và Ngọai Quái:
Mỗi quẻ trùng gồm hai quẻ đơn, quẻ đơn, ở dưới gọi là nội quái, quẻ ở trên gọi là ngọai
quái. Ví dụ quẻ Thiên Phong Cấu thì Thiên, tức Càn là ngọai quái, Phong tức tốn là nội quái.
Mỗi quẻ trùng gồm sáu hào, đánh số từ dưới lên: hào 1 gọi là Sơ, hào 2 gọi là nhị, hào 3 gọi
làtam, hào 4 gọi là tứ, hào 5 gọi là ngũ, hào trên cũng không gọi là lục mà gọi là thượng
(đọc một đọan sau độc giả sẽ hiểu tại sao)
Ví dụ: Quẻ Địa Thiên Thái:
Hào thượng
Hào 5 Quẻ trên là Khôn :địa (Ngọai quái)
Hào 4
Hào 3 Quẻ dưới là Càn: Thiên (Nội quái)
Hào 2
Hào Sơ
Gọi là nội quái, ngọai quái vì sắp theo vòng tròn thì quẻ Càn ở trong (nội) gần trung tâm,
còn quẻ Khôn chồng lên nó, ở ngòai (ngọai), xa trung tâm (coi đồ Phương vị 64 quẻ của
Phục HI , tr.37, quẻ 56 trên vòng tròn)
Vì có việc chồng hào và chồng quẻ như vậy nên khi tìm hiểu ý nghĩa, khi đóan quẻ, phải xét
từ dưới lên, từ hào sơ lần lần lên tới hào thượng.
Nhưng khi gọi tên quẻ thì theo thứ tự từ trên xuống, cho nên gọi là địa thiên; còn chữ Thái ở
sau trỏ nghĩa của quẻ: Thái là yên ổn (như thái bình thông thuận). Một thí dụ nữa: quẻ thủy
hỏa kí tế.
Đọc tên quẻ đó bạn phải hiểu ngay: ngọai quái (ở trên) là Khảm (thủy), nội quái (ở dưới) là
Li (hỏa) , và vẽ ngay được hình dưới đây:
Khảm (thủy)
Li (hỏa)
Hào sơ, hào tam, hào ngũ là dương, hào nhị, hào tứ, hào thượng là âm. Còn Kí tế là nghĩa
của quẻ: đã thành đã xong ,đã qua sông .
NỘI DUNG PHẦN KINH
Ba lọai Dịch.
Tác phẩm đầu tiên nói về kinh Dịch là cuốn Chu Lễ. Theo từ điển Từ Hải, tác phẩm này mới
đầu có tên là Chu Quan, chép về quan chấp chế độ quan lại tược lộc) đời Chu, xuất hiện sau
đời Khổng tử và Mạnh tử, khá phổ biến thời Chiến Quốc, Lưu Hâm (con Lưu Hướng) dưới
thời Hán Ai Đế và Vương Mãng, mới đổi tên là Chu Lể.
Sách đó chép đời Chu có ba lọai bói, có quan thái bốc giữ ba lọai dịch: Liên sơn Dịch, Qui
Tàng Dịch và Chu Dịch.
Về nguồn gốc của Liên Sơn Dịch và qui Tàng Dịch, có ba bốn thuyết, đều không tin được.
Người thì bảo Liên Sơn là của Phục Hi, Qui Tàng của Hòang đế, người lại bảo Liên Sơn của
Thần Nông, Qui Tàng của Hòang đế, người lại bảo Liên Sơn là dịch của Nhà Hạ, lấy quẻ Cấn
làm đầu (có lẻ vì Cấn là núi, mà Sơn cũng là núi); còn Qui Tàng là dịch của Nhà Thương, lấy
quẻ Khôn làm đầu (có lẽ vì Khôn là đất mà Qui Tàng có nghĩa là muôn vật đều từ đất sinh ra
rồi lại trở về đất). Nhưng hai lọai dịch đó đếu mất (mà theo các nhà Khảo Cổ học thì từ đời
Thương trở về trước, chưa hề có hình bát quái) ngày nay chỉ còn có Chu Dịch.
Có điều này chắc chắn là cách bói bằng cỏ thi khá thịnh hành từ trước thời khổng tử. Trong
bộ Xuân Thu Tả truyện (của Tả khâu Minh) có chép nhiều chuyện bói cỏ thi của các vua
Chúa.
Khổng Tử tuy không cầu đảo, không bói, mà trong Thiên Tử Lộ, bài 22 cũng nhắc tới tục hay
bói thời đó, và dẫn lời hào từ hào 3 quẻ Hằng trong Chu dịch.
Vì không có thuyết nào khác, chúng ta có thể chấp nhận rằng Văn vương (nhà Chu) là người
đầu tiên có công với Chu Dịch.
Văn Vương tên là Cơ Xương, là một chư hầu của nhà Ân, được vua Trụ phong làm Tây Bá,
tức là Chư hầu lớn nhất ở phương Tây, vào khỏang tỉnh Sơn Tây ngày nay. Ông có tài, có
đức, được lòng dân và nhiều chư hầu theo ông, muốn giúp ông diệt vua Trụ tàn bạo, dâm
lọan. Ông không nghe họ, vẫn trung với vua Trụ, vì vậy mà Khổng tử trong Thiên vi Chính,
bài 20, khen ông là “được hai phần ba thiên hạ theo mình mà vẫn thuần phục nhà Ân
(không cướp ngôi nhà Ân); đức của nhà Chu (trỏ Văn Vương) như vậy có thể nói là cực cao”
Nhưng vua Trụ thấy thiên hạ theo ông quá, đâm nghi ngờ ông bắt giam ông vào ngục Dữu
Ly năm 1141, 2 năm sau (có sách nói là 7 năm) mới tha, giao cho ông cầm quân chinh phạt
các dân tộc nổi lọan. Nhờ được Lã Thượng (La Vọng) giúp sức ông hòan thành nhiệm vụ rồi
mất năm – 1135.
Trong khi bị giam ở ngục Dữu Lý, có thể ông đã làm việc trùng quái, và chắc chắn là ông đã
đặt tên và tìm nghĩa cho 64 qủe, rồi viết Thóan từ cũng lọi là quái từ cho mỗi quẻ. Nhờ ông
mà ý nghĩa mỗi quẻ mới tinh diệu, lời đóan mới tương đối minh bạch, mà công việc đóan
cũng nhất trí hơn trước, không còn có cảnh mỗi quan thái bốc đóan theo ý riêng của mình
nữa.
Nhưng lời đóan của ông rất ngắn mỗi quẻ chỉ được một câu, chẳng hạn:
Quẻ Càn là “nguyên, hanh, lợi trinh”, nghĩa là quẻ đó có những đức: “đầu tiên lớn; thuận,
thông, tiện phải bền chặt”
Quẻ Thái là “Tiểu vãng, đại lai, cát, hanh” nghĩa là : âm qua dương lại tốt lành hanh thông.
Quẻ Ký Tế là hanh, tiểu, lợi trinh, cơ cát, chung lọan” nghĩa là: Việc nhỏ thì hanh thông, lợi
nhưng phải vững chí. Mới đầu tốt lành, cuối cùng lọan.
Khi ông mất rồi, con ông là Cơ Phát lên nối ngôi Tây Bá, năm – 1122 đem quân diệt Trụ,
chấm dứt nhà Ân và sáng lập nhà Chu, xưng là Võ Vương và phong cha là Văn Vương.
Võ Vương tổ chức chính quyền, vỗ về dân chúng; nhưng làm cho nhà Chu vững, thịnh lên,
cho văn minh Trung Quốc tiến mạnh là công của Chu Công, em ruột của ông, tên là Đán,
mà Khổng Tử rất phục, suốt đời chỉ việc ước ao lập được sự nghiệp như Chu Công.
Võ Vương chết năm – 1115, con là Thành Vương, còn nhỏ tuổi, lên nối ngôi, Chu Công làm
phụ chính, hết lòng giữ ngôi cho cháu, dẹp bọn phản động trong họ, tổ chức chế độ phong
kiến, sửa đổi lễ nhạc, mà vẫn có thì giờ tiếp tục công việc cha, nghiên cứu Dịch.
Văn Vương mới chỉ đặt ra Thóan Từ để giải nghĩa tòan quẻ. Chu Công đặt thêm Hào Từ cho
mỗi hào của mỗi quẻ, cộng là 384 hào, để giải nghĩa từng hào một.
Chẳng hạn quẻ Càn, dưới hào sơ (hào 1), Chu Công viết: “Tiềm long vật dụng”, nghĩa là:
rồng, còn ẩn náu, không dùng được.
Dưới hào 2, ông viết: “Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân”, nghĩa là : rồng đã hiện lên cánh
đồng, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi.
Dưới hào 3:”quân tử chung nậht càn càn, tịch dịch nhược, lệ, vô cữu” nghĩa là: người quân
tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ. Nguy hiểm , Không
tội lỗi v.v. .
Tới đây Chu Dịch mới thành một cuốn sách có văn từ, nghĩa lý, đời sau gọi là Kinh và chia
làm 2 thiên: thượng cho 30 quẻ đầu, hạ cho 34 quẻ sau. Nhưng lời Thóan và lời Hào vẫn
quá đơn giản , ít ai hiểu nên đời sau phải chú thích làm thêm bản Thập dực. Thập là mười,
dực là cánh con chịm , có ý bảo Thóan từ của Văn Vương, Hào từ của Chu Công đặt ở dưới
mỗi quẻ, mỗi hào, là đủ hình con chim rồi, bây giờ thêm Thập Dực, là thêm lông cho con
chim.
Thập Dực được gọi là Thập truyện. Chữ truyện thời xưa có nghĩa khác ngày nay: những lời
để giải thích kinh thì gọi là truyện: chẳng hạn sách Xuân Thu của Khổng Tử gọi là Kinh, sau
được ba người giải htích, tức Tả Khâu Minh, Công DươngCao, Cốc Lương Xích, và phần giải
thích của ba nhà đó gọi là Tả truyện, Công Dương truyện, Cốc lương truyện.
Có truyền thuyết cho rằng, Khổng tử viết thập dực. Trong chương sau tóm tắt nội dung
Thập dực chúng tôi sẽ xét xem thuyết đó đáng tin tới mức nào.
Dịch nghĩa là gì? Chu Dịch nghĩa là gì?
Chúng ta đã biết sách Chu Lễ Bảo đời chu có ba lọai Dịch: Liên Sơn Dịch, Qui Tàng Dịch và
Chu Dịch.
Nhưng tên Dịchđó do ai đặt ra, có từ hồi nào thì không ai biết. Ngay đến ý nghĩa của nó
cũng có hai thuyết.
a) Thuyết được hầu hết mọi người ngày nay chấp nhập là : biến đổi.
Về ngữ nguyên, chữ dịch là biến đổi lại có hai thuyết nữa. Một thuyết bảo chữ đó, hồi xưa
khác như vầy [ kỳ ] , tượng hình một lòai rắn tựa như lòai kì nhông ở nước ta, rất dễ thay
đổi màu da, chẳng hạn ở trên cây thì biến thành màu vỏ cây hay là cây, xuống dưới đất thì
biến thành màu đất : [ ] là cái đầu nó, mà [ ] là mình và đuôi nó. Mới đầu hình đó trỏ lòai kì
nhông sau có nghĩa là dễ biến đổi như kỳ nhông, sau cùng chỉ có nghĩa là biến đổi, mà mất
nghĩa kỳ nhông đi.
Một thuyết nữa bảo dịch [易 ] gồm chữ [ nhật ] nhật là mặt trời ở trên và chữ [ nguyệt ]
nguyệt là mặt trăng ở dưới. Dịch là thay đổi cho nhau như mặt trăng và mặt trời (mặt trời
lặn thì trăng mọc), là di chuyển hòai ở trên trời.
Dù theo ngữ nguyên nào thì dịch cũng có nghĩa là biến dịch thay đổi. Vạn vật sinh ra, lớn
lên, rồi già, chết. Trong quẻ Càn, Vạch dương ở hào sơ có một nghĩa, lên hào 2, hào 3 . . .lại
có những nghĩa khác. Đó là biến dịch.
Dịch còn có nghĩa là giao dịch. Giống đực giống cái giao cảm với nhau rồi mới sinh sinh hóa
hóa. Trong 8 quẻ đơn hào âm, hào dương thay đổi nhau; trong 64 quẻ trùng, các quẻ đơn
thay đổi hco nhau. Đó là giao dịch.
Nhưng trong sự biến dịch , vẫn còn những luật bất dịch như luật thịnh đến tột bực rồi phải
suy, chẳng hạn lòai người về thể chất khỏan 50 tuổi bắt đầu suy, mặt trăng, trònrồi bắt đầu
khuyết. Quẻ càn, vạch dương lên đến hào 5 là thịnh cực, tới hào thượng là suy. Một luật bất
dịch nữa là luật phản phục: không có gì mà không trở lại (vô vàng bất phục: quẻ Thái) , như
hết bốn mùa rồi trở lại Xuân, nước ròng sát rồi lại dâng lên . . .
Coi Chương VI ở sau, độc giả sẽ hiểu rõ những nghĩa biến dịch, giao dịch, bất dịch trong
kinh dịch.
b) Thuyết đó được mọi người chấp nhận. Nhưng vẫn không khỏi có người thắc mắc:
“Giải nghĩa chữ [ dịch ] như vậy rất đúng, nhưng kinh dịch chỉ có nghĩa đó từ khi nó thành
một tác phẩm triết lý cuối thời Xuân Thu trong thời Chiến Quốc; còn hồi đầu đời Chu nó chỉ
là một sách bói, chỉ cho người Trung Hoa một cách bói mới bằng cỏ thi để thay cách bói
bằng yếm rùa, thì nó chưa có nghĩa đó, mà chỉ có nghĩa là giản dị, và chữ [dịch ] phải đọc là
dị, nghĩa là dễ dàng. Dưới mỗi quẻ, có kèm theo một lời đóan nhất định, dưới mỗi hào cũng
vậy; Viên Thái bốc bói được quẻ nào, hào nào thì cứ theo lời đóan kèm theo đó mà suy luận,
so với lối bói bằng yếm rùa, giản dị hơn nhiều, nên cách bói mới có tên là Chu Dị; cách bói
giản dị của nhà Chu.
Thuyết này không phải là vô lý, và được vài nhà chủ trương, chẳng hạn dư Vĩnh Lương,
Phùng Hữu Lan như trang trên tôi đã nói.
Về nghĩa chữ chu [ ] trong Chu Dịch có hai thuyết.
a) Một thuyết, đại biểu là Trịnh huyền (đời Hán), bảo Chu đó không có nghĩa là nhà Chu, mà
có nghĩa là hết một vòng rồi trở về (chu nhi phục thủy), là chu lưu trong vũ trụ, là phổ cập.
chu Dịch có nghĩa là : đạo dịch, phổ biến khắp vũ trụ; là hết một vòng rồi trở về. Trịnh
Huyền lấy lẽ rằng ba sách Dịch đời Chu: Liên Sơn, Qui Tàng, Chu Dịch tên hai sách trên
không chỉ thời đại, thì tên cuốn cuối cùng cũng không chỉ thời đại. (để khỏi rườm, chúng tôi
chỉ tóm tắt như vậy thôi).
b) Một thuyết nữa, đại biểu là Khổng Dĩnh Đạt (đời đường) bác lẽ đó, bảo người ta gọi hai
sách trên là Liên Sơn, Qui Tàng, không thêm chữ dịch ở sau, mà Chu dịch là có chữ dịch tức
là chữ dịch này không thể tách khỏi chữ chu được mà như vậy Chu dịch phải có nghĩa là
dịch của đời Chu.
Lý luận của Trịnh và Khổng đều không vững, và chúng ta chỉ cần biết rằng ngày nay mọi
người đều hiểu chu là đời Chu, mà tên Chu dịch xuất hiện sau Khổng tử, Mạnh tử vì trong
Luận ngữ, Mạnh Tử, chỉ thấy dùng tên Dịch thôi, không dùng tên Chu dịch.
Một cuốn sách rất quan trọng mà từ nguồn gốc đến người viết, thời đại xuất hiện, ý nghĩa
của tên sách đều gây nhiều thắc mắc, mấy nghìn năm sau chưa giải quyết được, đó cũng là
một lẻ khiến cho Chu dịch thành một kỳ thư.
Chương 2 :
NỘI DUNG PHẦN TRUYỆN
Ai viết thập dực?
Có lời đoán cho mỗi quẻ (Thoán từ tức Quái từ), và lời đoán cho mỗi hào (hào từ) rồi, thế là
sách Chu Dịch hoàn thành. Người đời sau chỉ thêm những lời chú giải. Không có cuốn nào
được nhiều người chú giải như cúon đó. Tới đầu 9dời Thanh đã có trên một trăm bảy chục
bản chú giải còn giữa được, nếu kể cả những bản đã thất lạc, chỉ còn lại cái tên thì con số
phải gấp hai, gấp ba. Tiếp tục cho tới nay vẫn còn có người chú giải lại, có cả người Nhật,
người Âu (Đức, Anh, Pháp . . . ) người Việt mình nửa. Và chắc chắn sau này sẽ còn thêm
nhiều. ai cũng muốn xen ý kiến riêng của mình, của thời đại mình vô bộ Kinh đó.
Quan trọng nhất vẫn là chú giải đầu tiên, tức Thập Dực, cũng gọi là Thập Truyện.
Đại đa số các học giả Trung Hoa thời xưa cho rằng: Thập Dực là công trình của Khổng tử.
Sách Hán thư – phần Nghệ văn chí, bảo “Dịch đạo thâm hỉ nhân canh tam thánh, thế lịch
tam cổ”. Nghĩa là: Đạo Dịch rất thâm thúy, là công của ba vị thánh, trải ba đời mới xong. Ba
vị thánh đó là Phục Hi, Văn Vương, Khổng tử; ba đời là đời thượng cổ (Phục Hi), đời trung cổ
(Văn Vương) đời Hạ cổ (Khổng tử). (Hán thư cho công việc viết quái từ và hào từ đều là của
Văn vương; nhưng thuyết Chu Công viết hào từ được nhiều người chấp nhận hơn; và các
thầy bói ngày nay khi bói đều khấn cả bốn vị Thánh: Phục HI, Văn Vương, Chu Công, Khổng
tử)
Nhưng Khổng tử có thực là người viếtThập Dực không? Điều đó còn đáng ngờ.
Trong tập Khổng tử, tôi đã dẫn nhiều chứng cớ rằng muốn biết đời và tư tưởng Khổng tử thì
chỉ nên căn cứ vào Luận ngữ, những sách khác đều không đáng tin.
Trong Luận ngữ chỉ có hai bài nhắc tới Kinh Dịch: bài Tử Lộ -22, Khổng tử dẫn một hào từ
trong quẻ Hằng; và bài Thuật nhi – 16, Khổng tử nói:”Gia ngã sổ niên, ngũ thập dĩ học
Dịch, khả dĩ vô đại quá hi” (Cho ta sống thêm ít năm nữa, tới 50 tuổi để nghiên cứu kinh
Dịch, thì có thể không lầm lỗi lớn).
Bài sau, có người cho là chép sai, hai chữ “ngủ thập” [五十] chính là chữ “tốt” [捽 ] , chữ
dịch [易] chính là chữ diệc [亦]. Và phải chấm câu như sau: “Gia ngả số niên tốt dĩ học, diệc
khả dĩ vô đại quá hi”, dịch là:”Cho ta sống thêm ít năm nữa để học thì cũng có thể lầm lỗi
lớn”.
Dù chép đúng chăng nữa, thì bài đó cũng như bài trên chỉ đủ chứng tỏ rằng Khổng Tử có
đọc Kinh Dịch, chứ không có gì chắc chắn rằng ông đã viết về Kinh Dịch.
Huống hồ trong Luận ngữ, ông không hề giảng kinh Dịch cho môn sinh, như giảng về thi,
thư, lễ nhạc. Mạnh Tử, Tuân tử cũng không hề nói ông viết Thập Dực, chỉ nói ông viết Kinh
Xuân thu thôi. Mà danh từ Thập Dực này không hề xuất hiện trong thời Tiền Tấn, mãi tới đời
Hán mới thấy.
Ba lẽ nữa:
1/ Tư tưởng trong Thập Dực rất tạp, có tư tưởng của Lão tử, có câu giống trong Trung, Đại
HỌc.
2/ Trong Văn ngôn và Hệ từ ( 2 truyện dực – trong thập dực) có chép: “Tử viết (nghĩa là
thầy dạy, hay Khổng tử dạy), như vậy không phải là của Khổng tử viết rồi.
3/ Giọng văn cũng nhiều chỗ khác nhau, ý nghĩa có chỗ thâm thúy, có chỗ rất tầm thường,
không thể do một người viết được, mà do nhiều người trong nhiều thời viết rồi người sau
gom cả lại.
Do những lẽ đó, từ đời Tống, Âu Dương Tu, Diệp Thích đã ngờ thuyết Khổng tử viết Thập
Dực (coi cuốn: Dịch, đồng tử vấn của Âu Dương tu) , và gần đây, từ Khang Hữu vi tới Phùng
Hữu Lan đều nhận là Âu Dương Tu có lý.
Nhiều lắm thì ta chỉ có thể nói rằng Khổng tử đã nghiên cứu Kinh dịch, nhưng về già chỉ
giảng cho một số rất ít môn sinh, và Thập Dực do một phái dịch học đời Chiến quốc – gồm
cả Khổng gia lẫn Lão gia, viết kẻ trước người sau, do đó mà hoàn thành rất trễ, có thể là
cuối thời Chiến quốc đầu đời Hán không thể nào ngay sau đời Khổng tử được.
NỘI DUNG THẬP DỰC
Sự thực chỉ có Thất Dực truyện, nhưng gồm 10 Thiên nên gọi là Thập Dực :
I. Thoán truyện : 2 thiên.
II. Tượng truyện – 2 thiên.
III. Hệ từ truyện cũng gọi là Đại truyện – 2 thiên.
IV. Văn ngôn truyện – 1 thiên.
V. Thất quái truyện – 1 thiên.
VI. Tự quái truyện – 1 thiên.
VII. Tạp quái truyện – 1 thiên.
Ngay cái điều gọi mỗi thiên là một truyện cũng vô lý rồi; mà đọc những trang sau, độc giả
sẽ thấy sự chia ba truyện đầu mỗi truyện thành hai thiên cũng không theo một qui tắc
chung nào cả.
Vì vậy mà sự chia thiên như trên không được mọi sách theo. Chẳng hạn bản cụ Phan Bội
Châu cho Thoán truyện chỉ có 1 thiên, chỉ là truyện; mà lại cho Tự quái truyện gồm hai
thiên, thành 2 truyện.
Một bản khác, James Legge dùng để dịch, lại cho Văn ngôn truyện có 2 thiên (một cho 30
quẻ đầu, một cho 34 quẻ sau) như vậy là ngoài Thuyết quái truyện và Tạp quái truyện, mỗi
truyện chỉ có 1 thiên, kể là 1 truyện, còn 5 truyện kia, mỗi truyện có 2 thiên, kể làm hai
truyện; cộng cả lại là 12 truyện chớ không phải 10 truyện.
Cách chia thiên và gọi thiên là truyện, như vậy vừa vô lý vừa lộn xộn, cho nên chúng tôi
nghĩ phần truyện trong Kinh Dịch chỉ nên coi là có 7 truyện thôi.
Dưới đây, tôi tóm tắt nội dung bảy truyện đó.
I. THoáN TRUYỆN
Ở trên tôi đã nói Văn Vương viết Thoán từ, tức lời đoán cho mỗi quẻ: ông chỉ cho biết vắn
tắt mỗi quẻ tốt xấu ra sao, đôi khi cũng cho biết ý nghĩa ra sao, chứ không giảng tại sao.
Người viết Thoán Truyện (theo Vũ Đồng,sống sau Khổng tử, trước hoặc sau Mạnh tử) giảng
giải thêm.
Thí dụ: Quẻ Càn, Thoán từ chỉ có 5 chữ: Càn, Nguyên Hanh, Lợi Trinh (coi trang 14).
Thoán Truyện giải thích:
“Đại tai càn nguyên, vạn vật tư thủy, nãi thống thiên; vận hành vũ thí, phẩm vật lưu hình.
Đại minh chung thủy, lục vị thời thành, thời thựa lục long dĩ ngự thiên. Càn đạo biến hoá,
các chính tính mệnh, bảo hợp thái hoà, nãi lợi trinh, thủ xuất thứ vật, vạn quốc hàm ninh”.
Nghĩa là: đức “nguyên” của càn lớn thay, vạn vật đều nhờ nó mà bắt đầu nảy nở, nó thống
quát thiên đạo (đó là giảng về đức nguyên) Càn làm ra mây, khiến cho mây biến hoá, làm
ra mưa, khiến cho mưa thấm nhuần khắp, mà vạn vật thành hình thành sắc, sinh trưởng
đến vô cùng (đó là giảng về đức hanh).
Bậc thánh nhân (đại minh: cực sáng suốt) thấy được cả trước sau, cả sáu hào của quẻ Càn,
mỗi hào có một vị (ngôi) nên thuận thời mà hành đạo, như cưởi 6 con rồng (ám chỉ sáu hào
dương của quẻ càn) mà thống ngự cả vùng trời (khuyên chúng ta nên tùy thời mà hành
động, lúc nào nên ẩn thì ẩn, nên hiện thì hiện, nên tĩnh thì tĩnh, nên động thì động). tóm lại
là đạo Càn biến hoá, khiến cho vật gì cũng giữ được tính mệnh trời phú, giữ được cái nguyên
khí cho thái hoà (thái là rất). Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật (theo đạo Càn) thì vạn
nước đều bình an vô sự (đó là giảng về hai đức lợi , trình)
Chúng ta thấy tác giả Thoán truyện (sống ở đời Chiến Quốc, sau Văn Vương có thể bảy tám
trăm năm) đã cho Kinh Dịch có một ý nghĩa triết lý, chứ không phải chỉ để bói nữa.
Thoán truyện chia làm hai thiên: thiên thượng giải thích thoán từ của 30 quẻ đầu, thiên hạ
giải thích thoán từ của 34 quẻ sau. Như vậy là theo đúng sự chia thiên trong phần kinh.
Theo Nghiêm Linh Phong, tác giả Dịch học Tân luận (chính trung Thư cục Hương Cảng
1971). Thoán truyện có nhiều chỗ thoát văn, hoặc chưa giải thích, tư tưởng có nhiều chỗ
giống Nho gia, như đoạn Thoán truyện quẻ Càn dẫn trên, ý nghĩa rất giống.
- Câu này trong Luận Ngữ thiên Dương Hoá: “Thiên hà ngôn tai! Tứ thời hành yên, vạn vật
sinh yên, thiên hà ngôn tai!” (Trời nói gì đâu! Bốn mùa vận hành mà vạn vật sinh ra, trời
nói gì đâu!)
- Và câu này trong Trung Dung: “Trí trung hoà, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên” (Cực
Trung hoà thì trời đất đều ở đúngvị trí mà vạn vật mới sinh.)
II. TƯỢNG TRUYỆN:
Giải thích cái “tượng của mỗi quẻ”. Cũng chia làm hai thiên: thiên thượng cho 30 quẻ đầu,
thiên hạ cho 34 quẻ sau. Mỗi quẻ đều thích nghĩa cái tượng của cả quẻ (gọi là Đại lượng) rồi
lại thích nghĩa cái tượng của mỗi hào (gọi là Tiểu tượng).