Nội dung text: Văn học miền nam - phần iv-b
TIẾT 6: THƠ MỚI
I.- NGUỒN GỐC THƠ MỚI
Những người theo tân học hay những du học sinh thuở trước
như Nguyễn Trọng Quản, Diệp Văn Cương... đều có học hay đọc
thơ của những nhà thơ Pháp, thi pháp của họ cũng có vần nhưng số
chữ trong câu không gò bó, nó đã ảnh hưởng, trở thành nhân tố
làm cho Thơ mới được khai sinh sau nầy, kể cả yếu tố Nguyễn Văn
Vĩnh dịch ngụ ngôn của La Fontaine bài La Cigale et la Fourmi
đăng ở Đông Dương tạp chí, số 40, năm 1914 như sau:
Con Ve Và Con Kiến
Con ve sầu kêu ve ve,
Suốt mùa hè,
Ðến kỳ gió bấc thổi;
Nguồn cơn thật bối rối.
Một miếng cũng chẳng còn.
Ruồi bọ không một con,
Vác miệng chịu khúm núm,
Sang chị kiến hàng xóm,
Xin cùng chị cho vay,
Răm ba hạt qua ngày.
"Từ nay sang tháng hạ,
Em lại xin đem trả.
Trước thu, thề Đất Trời!
Xin đủ cả vốn lời."
Tính kiến ghét vay cậy,
Trăm thói, thói này vì :
"Nắng ráo chú làm gì ?"
Kiến hỏi ve như vậy.
Ve rằng: "Luôn đêm ngày,
Tôi hát, thiệt gì bác".
Kiến rằng: "Xưa chú hát ?
451
Nay thử múa coi đây."
Nếu chúng ta quay trở lại ngày trước một thời gian ngắn,
chúng ta thấy rằng sĩ tử, hay những nhà trí thức, khoa bảng Việt
Nam đều phải học từ chương để thi cử, đạt được thành quả trở
thành ông Cử, ông Nghè, ông Cống, "thắng vi quan thối vi sư",
người ta đều phải trải qua học làm thi, làm phú, những vần những
điệu bị gò ép trong khuôn khổ sẵn có. Trong tiến trình thôn tính
Việt Nam của Pháp, Miền Nam đã không còn thi cử theo lối cũ từ
năm 1863, Bắc Kỳ bãi bỏ thi cử theo lối cũ năm 1915 và Trung kỳ
khóa thi cuối cùng năm 1919. Kể từ đó con đường quan lộ phải
học chữ Quốc ngữ, chữ Pháp để biết đọc biết viết, những người
nào muốn học cao hơn, chỉ còn có cách theo nền giáo dục của
Pháp, cho nên người ta dễ dàng chịu ảnh hưởng thi pháp của Pháp.
Trong địa hạt Văn học nghệ thuật, người ta thường có kinh
nghiệm thấy rằng hình thức quyết định nội dung, chính hình thức chữ
Quốc ngữ đã đưa đến khai sinh ra Thơ mới là điều tất nhiên vậy.
Nhưng điều quan trọng là Miền Nam đã chính thức khai sinh ra
Thơ mới do ông Phan Khôi (1) khởi xướng, ông đã viết bài đăng
trên Phụ Nữ Tân Văn ở Sàigòn, số 122 ngày 10 tháng 3 năm 1932
có tựa là :
Một Lối Thơ Mới Trình Chánh Giữa Làng Thơ
Trong ấy ông đã viết : “... đem ý thật có trong tâm khảm mình
tả ra bằng những câu có vần mà không bó buộc niêm luật gì hết"
và tạm mệnh danh là Thơ mới, ông đem bài thơ dưới đây đăng lên
làm thí dụ điển hình :
Tình Già
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa.
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh, kề nhau
than thở :
"- Ôi ! Ðôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn
là không đặng";
"Ðể đến nổi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà
buông nhau !"
"- Hay ! Nói mới bạc làm sao chớ ! Buông nhau làm sao cho nỡ ?"
“Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông Trời
bắt đôi ta phải vậy !”
"Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng mà tính việc thủy chung ?"
452
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau :
Ðôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được !
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi ! Con mắt còn có đuôi.
Nhà văn Phan Khôi
(1887-1960)
Trên Phụ Trương Văn Chương của nhật báo Đuốc Nhà Nam
phát hành tại Sàigòn, một độc giả hưởng ứng, sáng tác bài Thơ mới
sau đây:
Than thân
Trời,
Nước vơi
Buồn bấy phận
Xứ lạ quê người
Ai cùng ta tri kỷ
Hai vai nặng ơn sông núi
Một tấm lòng quê chặc nợ đời
Cái chí tang bồng cưu mang oằn gánh
Khách giang hồ giọt hồng đổ hạt châu rơi
Tri Cẩn
453
Đuốc Nhà Nam số 41 ngày 7-1-1933
Bài báo của ông Phan Khôi được nữ độc giả Liên Hương ở Hội
An gửi thư tới hoan nghênh, được Lưu Trọng Lư gửi đăng Thơ mới
bài Trên Ðường Thiên Lý và bài Vắng Khách Thơ cũng của Lưu
Trọng Lư nhưng ký tên là Thanh Tâm, sau bài thơ nầy được Lưu
Trọng Lư đổi tên là Xuân về:
Xuân về
Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giáp Mộ
Trong căn nhà cỏ
Tôi quay tơ
Chàng ngâm thơ
Vườn sau oanh giục giã,
Nhìn ra hoa đua nở,
Dừng tay tôi kêu chàng:
"Này, này bạn ! xuân sang".
Chàng nhìn xuống mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng lòng vồn vã ...
Rồi ngày lại ngày
Sắc màu: phai
Lá vàng: rụng
Ba gian: trống
Xuân đi
Chàng cũng đi
Năm nay xuân còn trở lại
Người xưa không thấy tới.
Sau đợt ba bài thơ mới đó, Phụ nữ Tân Văn còn đăng những
bài Thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh, Hồ Văn Hảo và những
người khác nữa.
454
Ngày 26-7-1933, thi sĩ Nguyễn Thị Manh Manh, diễn thuyết tại
Hội Khuyến Học Nam Kỳ (SAMIPIC) Sàigòn, để cổ vũ, tán dương
Thơ mới, sau đó cũng có những nhà văn đăng dàn diễn thuyết
nhằm mục đích phổ biến Thơ mới như Ðỗ Ðình Vượng, Lưu Trọng
Lư, Vũ Ðình Liên. Dĩ nhiên có những nhà văn, nhà thơ như Tân
Việt, Tản Ðà, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh, Tường Vân và
Phi Vân, Tùng Lâm Lê Cương Phụng, Thái Phỉ và Huỳnh Thúc
Kháng viết bài đăng trên báo, đăng đàn diễn thuyết, từ Sàigòn ra
đến Hà Nội để bênh vực thơ cũ, công kích Thơ mới.
Trong số đó, có một bài công kích Thơ mới đăng ở mục Nhàn
đàm trong Phụ Trương Văn Chương của nhật báo Đuốc Nhà Nam
số 64 ra ngày 3-7-1933 như sau:
Dịch thơ mới
Đọc đến đầu đề chắc không khỏi có một vài vị độc giả ngộ
nhận chữ dịch, đây là traduire của Tây. Như thế là không đúng.
“Dịch” đây là cái bịnh rất ghê gớm cũng như dịch hạch, dịch
thiên thời, chứng bịnh rất truyền nhiễm ấy tức là dịch thơ mới vậy.
Mấy tháng nay không hiểu từ đâu đem đến mà cái bịnh dịch
này nó lan tràn từ Bắc chí Nam mà nhứt là ở Nam nếu ta nói là
chỗ chứa (dépôt) bịnh dịch này cũng được.
Cũng nên khảo cứu thử cội rễ của nó ở đâu. Hình như trước
kia ông Phan Khôi khi còn viết báo trong Nam ổng dòm miếng đất
thi thơ nước nhà coi bé tí quá, nghĩa là cách làm thơ chỉ trong
vòng niêm luật đối chọi lôi thôi mà ông phát kiến ra cái "Tình
xưa", rồi ổng đem trình qua làng báo. Đại ý ông Phan Khôi nói
"Miếng đất thi thơ từ phú ở nhà ta hẹp quá vậy phải khuyếch
trương thêm đây tôi xin trình với các ngài lối thơ mới của tôi đây
nếu xài được thì nhờ mấy ngài tán thành và hưởng ứng". Tôi xin
chép lại vài câu trong đầu bài thơ "Tình xưa" của Phan Khôi như
dưới đây cho độc giả thưởng thức.
Hai mươi mấy năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa
Trong cái lều tranh nhỏ, hai cái đầu xanh, kề nhau mà than thở
Ôi ! Ðôi ta tình vẫn rất nặng nhưng lấy nhau hẳn đã không đặng
Ðể đến nổi tình trước phụ nghĩa sau, chi cho bằng sớm liệu mà xa nhau
455
Mấy câu thơ đó ai thì sao tôi không biết chớ riêng về phần tôi,
tôi nói nó "mùi" và chan chứa mối tình nhiều lắm.
Đem ra đăng báo không thấy ai hó hé gì hết. Phan tiên sinh
giận “dứt giây từ đó về sau xin chừa”. Phan tiên sinh không màng
dở chuyện cũ nữa nhưng người sau tiên sinh lại rất chú trọng nên
chi bịnh dịch thơ mới cũng bắt đầu thịnh hành từ đó.
Như tôi đã nói ở Nam cái “dịch” đó bành trướng một cách nên
ghê sợ lắm, mà người đốc xuất bịnh đó để truyền khắp xa gần lại
chính là một thơ văn gái một nữ đồng nghiệp chưn ước chưa ráo ở
trong làng báo chúng tôi.
Một mình cô sanh ra vô số thơ mới nghĩa là một thứ thơ không
phải là thơ một món văn cũng chưa hẵn là văn, một thứ thơ mà
anh phu xe, thằng chệt lẻn kẻn, đứa con nít năm tuổi cũng làm
được dư sức.
Thấy ngộ và dể "bửa cũi" mấy nhà nam nữ văn sĩ khác đua
nhau hưởng ứng.
Đây tôi xin trích ra một vài đoạn thơ mới để làm quà cho độc
giả.
NGHE ĐỜN
Nghe
Anh cất tiếng đờn ở mé phòng tây
Tôi lên đến đây
Nghe tiếng đờn
GỬI MẤY HÀNG DƯƠNG TRONG LÀNG TÔI
Hởi mấy hàng dương mọc ở quê hương
Trong thấy tôi thương
Sao các người được rõ tường…
Đọc hai đoạn tôi trích ra trong năm đoạn khác chắc độc giả
xem qua không khỏi ôm bụng…
Cái lối thơ gì mà quái gỡ hết sức xem một trăm bài không có
bài nào giống với bài nào hết nghĩa là mấy nhà thi sĩ (!) ta hễ nghĩ
sao viết vậy rồi tự nhận là lối thơ mới (?)
456
Nếu muốn trở nên nhà thi sĩ như trở bàn tay thì xã hội Việt
Nam mình thì không người nào là không làm được thi sĩ.
Anh bán cà na sẽ trở nên thi sĩ với bài rao của anh:
Trái cà na trái cà na
Bên Tàu mới đem qua
Ở đường Catinat
Số nhà lẽ ba
Con nít có khóc có la
Mua một trái dọng vô miệng nó hết la v.v.
Đứa bé năm tuổi cũng cũng sẽ được làm thi sĩ với mấy câu của
nó đòi ăn:
Má ơi ! Đừng có đánh
Cho con xin một cái bánh
Rồi con sẽ đi tránh v.v.
Xem đó thì đoán ngay được là tiền đồ hàng năm nước nhà sẽ
sản xuất không biết bao nhiêu là thi sĩ. Chừng đó phái cỗ điển như
Tản Đà, Á Nam sẽ bị đạo binh lãng mạn trên nầy đuổi chạy không
kịp.
TỊNH ĐẾ
Dù có bị phê bình gay gắt như bài Nhàn Đàm trích trên đây,
nhưng thực chất Thơ mới phóng khoáng, bình dị, mới mẻ, nên
được nhiều người ủng hộ từ phía sáng tác cũng như giới thưởng
ngoạn, từ đó Thơ mới có đủ sức bật vượt qua làng thơ cũ, chiếm
chỗ đứng xứng đáng trong văn học Việt Nam, ngày nay chúng ta
có những bài thơ mới của Tứ Ly, Thế Lữ, Vũ Ðình Liên, Ðoàn Phú
Thứ ... đã sáng tác trong giai đoạn nầy.
II. NHỮNG NHÀ THƠ MỚI
1.- Nguyễn Thị Manh Manh (1914- ? )
457
Thi sĩ Nguyễn Thị Manh Manh thường ký tắt là Manh Manh,
còn có bút hiệu là Mym, Nguyễn Văn Mym, Lệ Thủy có lúc dùng
tên Nguyễn Thị Kim, cũng có lúc dùng tên thật là Nguyễn Thị
Kiêm, sinh năm 1914 tại tỉnh Gò Công. Con của tri huyện Nguyễn
Đình Trị, tục danh Huyện Trị, Nghị viên thành phố Sàigòn-Chợ
Lớn thời bấy giờ.
Thuở nhỏ nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh học ở trường Ecole
des Jeunnes Files Annamites, cũng có tên là Nữ Học Đường
Sàigòn, thường được gọi là trường Áo Tím, sau đổi là trường Gia
Long, sau 1975 đổi tên là trường Nguyễn Thị Minh Khai. Sau khi
tốt nghiệp bằng Thành Chung, bà dạy học tại trường này một thời
gian, đồng thời cộng tác với một số báo như Công Luận, Nữ Lưu,
Việt Nam, Phụ Nữ Tân Văn… bà tích cực tham gia hoạt động
trong các hội Nữ Lưu Học Hội, Hội Dục Anh, thành lập Hội Cựu
Học Sinh Trường Nữ Học Đường Sàigòn, bà giữ chức Tổng Thư
Ký hội này.
Hưởng ứng đề xướng Thơ mới của Phan Khôi, nữ sĩ đã sáng
tác, đăng đàn diễn thuyết cổ vũ cho phong trào thơ mới, nhờ đó
Thơ mới vượt khỏi bao chướng ngại do hàng nghìn năm khuôn sáo
của làng "Thơ cũ".
458
Năm 1937, nữ sĩ kết duyên với ông Trương Tuấn Cảnh, người
Hà Tiên, cũng là nhà giáo, nhà thơ với bút hiệu Lư Khê.
Khoảng 1950, nữ sĩ buồn phiền chuyện gia đình, sang Pháp
định cư rồi mai danh ẩn tích từ dạo đó.
Trích thơ:
Viếng phòng vắng
Gió lọt phòng không
Tạt hơi đông
Lạnh như đồng
Ngồi mơ tưởng
Ngày xưa phất phưởng
Dấy động tơ lòng ...
Trải đã mấy trăng
Hỡi nhện giăng
Với rêu lan
Tấm vách cũ
Từ khi người chủ
Một giấc lặng trang.
Tan nát vóc xưa
dưới mồ mưa
sương phủ dập ! ...
Đến hồn nàng
Thôi cũng bặt đàng
Biết sao được gặp ! ...
Hò hẹn kiếp sau
lại tìm nhau.
Có đặng nào ?
Dầu có tin
nàng sẽ tái sinh
ở vũ trụ nào ?
*
Thôi duyên có bấy
nhiêu ngần ấy ! ...
Hoa để tàn
trong trương sách
459
hơi lây lách
Như thấm từ hàng ;
Nàng tựa đóa hoa
mà người ta
là quyển sách
lật nửa chừng
từ mỗi tờ, bừng
hương lên bay tách ...
*
Gió lọt phòng không
tạt hơi đông
lạnh như đồng
Ngồi tơ tưởng
Tình xưa phất phưởng
Ấm dịu cõi lòng ...
( Phụ Nữ Tân Văn, số Mùa Xuân, 19-1-1933 )
Hai cô thiếu nữ
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng
( Một cô ở chợ, một cô ở đồng )
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng,
Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen.
Hai cô rủ nhau đi xuống đầm
( Cô đi chân không, cô đi dép đầm )
Hai cô rủ nhau đi xuống đầm,
Bóng lụa hồng tách bóng vải thâm.
Mỗi người tay xách một giỏ mây,
Băng đi tha thướt dưới bóng nhành cây.
Mỗi người tay xách một giỏ mây,
Cô này bắt cá, cô này hái hoa ...
Rồi lại rủ nhau đi về.
Một cô nhẹ nhàng, một cô nặng nề.
Rồi lại rủ nhau đi về.
Giỏ cá cũng gần kề với giỏ bông.
Gặp bà lão khóc dựa bên đường,
Hai cô mới ngừng để hỏi tỏ tường.
460
Gặp bà lão khóc dựa bên đường,
Nghe tỏ tường cả hai động lòng thương.
Bà kia còn ba mụn cháu thơ,
Mồ côi cha mẹ, cùng bà bơ vơ ...
Bà kia còn ba mụn cháu thơ,
Nhà tranh hết gạo biết nhờ cậy ai ?
Cô ở đồng tay đưa giỏ cá :
"Bà ơi, cá ni bán được giá cao."
Cô ở đồng tay đưa giỏ cá :
"Bà lấy hết đi, bán được khá tiền ."
Lão bà nước mắt đổ chan hòa
Thốt ra mấy lời cảm ân thật thà
Lão bà nước mắt đổ chan hòa
Rằng : "Cô thật là tiên xuống cứu tôi."
Cô ở chợ tay đưa giỏ bông :
"Bà ơi, thứ này bán được tiền không ? "
Cô ở chợ tay đưa giỏ bông :
"Nếu bà muốn bán, cho bông cháu bà ."
Bà lão cười rồi lại nói vầy :
"Ở đồng có ai mua chi thứ này"
Bà lão cười rồi lại nói vầy :
"Cháu nhà trông gạo, bông này quản chi."
Xong mới từ hai cô mà đi ...
Cấp củm giỏ mây, buổi cơm trẻ nhi.
Xong mới từ hai cô mà đi ...
Một cô thì lại nghĩ chi, thở dài ...
Hai cô thiếu nữ đi khỏi đồng,
Cô ở đồng bay nhẹ bổng tấm lòng.
Hai cô thiếu nữ đi khỏi đồng.
Cô áo hồng mang nặng cái giỏ bông ...
(Phụ Nữ Tân Văn, 1933)
Canh tàn
Em ơi, nghe lóng nghe
Gió đêm thoáng qua cửa ...
461
Lụn tàn một góc lửa,
Lạnh ngắt chốn buồng the.
Gió đêm thoáng qua cửa ...
Não dạ dế tỉ te
Lạnh ngắt chốn buồng the ...
Em ơi, khêu chút lửa.
Não dạ dế tỉ te
Gió ru "... thiết chi nữa ..."
Em ơi, khêu chút lửa
Rồi lại ngồi đây nghe.
Gió ru "... thiết chi nữa ..."
Sụt sùi mấy cành tre
Em ngồi đây có nghe
Tơ lòng chi đứt nữa.
(Trích trong bài diễn thuyết tại Hội Khuyến học Nam Kỳ ở Sài
Gòn ngày 26-7-1933)
Bức thư gởi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới
Phải tôi đấy, Manh Manh, mấy bạn à !
Lâu quá không làm thơ, mấy bạn cũng "nột dạ" ?
Phải, tôi đây Manh Manh, mấy ông à !
Lâu quá không làm thơ, mấy ông lấy làm lạ ?...
Bạn yêu tựu hỏi nhỏ : "E...chỉ sợ ?
Tội nghiệp chớ ! Người thì trẻ nên có hơi khờ "...
Bạn ghét xúm hét to : " Á! nó sợ !
Đáng khiếp chửa ! Người thì đẹt mà muốn vát cờ"
Nghiêng mình thưa :"Hỡi các bạn quí yêu,
Gì mà sợ ? Nghe tôi nói nhỏ : Manh chưa "xiều"
Khoanh tay gọi :"Hỡi các ông trớ trêu,
Khoan vinh mặt, đứng ngay cho tôi tỏ mấy điều
Thật, lâu nay tôi vắng đến "làng thơ"
Các bạn ơi, không phải phụ ai mà hởn hờ,
Ừ, lâu nay tôi không có làm thơ,
Các ông ơi, không phải sợ ai mà lu lờ.
Bị lôi cuốn trong chiến trường hoạt động.
Há được ngồi không mà sấp "mấy sợi tơ lòng".
462
Trước là hành động, thơ không mấy trọng,
Suốt đời nào để nghe quả tim con phập phồng !
Tuy vậy, giữa những lúc đi hăm hở,
Đôi khi tôi giựt mình nhớ đến khách làng thơ.
Ừ, mình nín thinh họ cho nhát dở !
Thôi, lấy "túi văn chương" vét một vài bài thơ.
Bấy lâu đành với tình cảm hởn hờ,
Bây giờ cần tới nó e hồn thơ không tới ?
Nói chơi, chớ có gì đâu mà chờ,
Đây một bức thơ, thơ mới ! thơ mới ! thơ mới !
...Rồi tôi thấy biết bao người rũ tới.
Vừa nghe hô thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh
Người ưa với kẻ ghét lối thơ mới,
Ưa đến nghe, ghét đến "bới" làm tôi tái xanh
...Rồi tôi nghe tiếng cười rộ lớn thêm,
Vớ được chuyện, họ cầm bút viết thôi kịch liệt !
Kẻ nghịch la : "Đả đảo ! chẳng để êm !"
Bạn thích gật đầu nói : "Cái lối thơ hay thiệt"
Kết luận chuyện mới gần thành chuyện cũ
Các bạn ơi, cãi với nhau thét đã nhàm rồi
Làng thơ, thơ cũ, thơ mới, có đủ :
Thơ xưa là đất cũ, thơ nay tỷ đất bồi ;
Đất trước để yên, đất sau lo xới,
Đất mới thì ít khô khan hơn đất dụng rồi.
Rủ nhau khai phá, cất thêm sở mới,
Nếu thật tình mong cây thơm mọc nhánh đâm chồi.
Bây giờ tôi thử khuyên khách làng thơ:
"Đổi lại, ai ưa thơ mới lo tìm chỗ dở,
Ai ghét, ráng kiếm cái hay của thơ
Vậy, chê, khen, có giá trị hoa mới sẽ nở ".
( Phụ Nữ Tân Văn, số 228, ngày 14-12-1933 )
Bà La Fugie nhà thám hiểm và họa sĩ
Các anh ơi dẹp lọ, dẹp đèn, dẹp tim, dẹp móc
Để tôi dắt các anh ra mắt một người đàn bà
Một người đàn bà từng bao phen lăn lóc
463
Giữa tạo vật với phong ba (đây chẳng phải là “tạo vật”
“phong ba” theo nghĩa bóng các anh thường than thở)
Người từng lướt đi chẳng kể nắng nung, tuyết lạnh, đất
nghiêng, đá vỡ
Người ăn vận như bạn trai, ngồi lưng ngựa long chong
Mà qua đèo, xuống hố, lên dốc, lội hào
Cùng một bọn tùy tùng dân lạ, sấn đi giữa non núi chình chòng
Rồi trải qua những ngày phẳng lặng, những đêm hung giông
bão …
Các anh ơi, đó là nhà thám hiểm, lại là giống đàn bà đem
cái trí, cái tài, cái gan của mình để phục vụ khoa học
Sống để đi kiếm trên mặt đất, những góc nào mà loài người
còn cô độc
Những xứ tít mù xa, sống để khảo sát bao la …
Rồi mượn bút họa thần tình mà gộp trong mấy vuông giấy
trắng thế giới bằng phong cảnh, nhân loại bằng hình người
Cái tài nuôi cái chí, người tự tạo người.
Ôi ! mấy bức tranh của họa sĩ là một đời in khắc!
Các anh ơi các anh chẳng có biệt tài, có chí cao, có gan lớn
thì tôi chẳng xúi các anh chuyện đi xa.
Tôi chẳng buộc các anh cưỡi ngựa vượt non băng ngàn lưu
linh xứ lạ.
Chống với gió mưa vất vả, với sương tuyết, tơi tả vói băng sơn
Tôi chỉ xin các anh bẻ ống, đập đèn, liệng tim, quăng móc
Tôi chỉ cầu các anh thôi hút, bỏ dứt tật ghiền;
Các anh ưng nghe tôi chăng? Hay là:
Đang lúc tâm hồn tôi rung động vì một bậc anh tài mới
thoáng qua.
Đang lúc tôi hăm hở hát ca cái can đảm, cái khí tiết, cái
hùng dũng
Của một người đàn bà; - mà các anh vẫn nằm điềm nhiên,
vẫn móc, vẫn tim, vẫn hút, vẫn ghiền.
464
Thì các anh ơi
Đành rằng trọn đời, trên thế giới người ta,
Các anh chẳng là đàn ông, mà các anh cũng chẳng đáng làm
đàn bà.
Phụ Nữ Tân Văn, số ra ngày 20-4-1934
2.- HỒ VĂN HẢO (1917- ? )
Thi sĩ Hồ Văn Hảo cũng là tên thật, sinh ngày 14 tháng 2 năm
1917 tại làng Tân Qui Đông , tỉnh Sa Đéc. Ông bắt đầu làm thơ từ
13 tuổi và chính thức góp mặt trên thi đàn năm 1933, trong khi còn
ở ghế nhà trường Trung học Mỹ Tho, nhờ sự khuyến khích và chỉ
dẫn của Giáo sư Việt Văn Trần văn Hương.
Hồ Văn Hảo hưởng ứng bài Tình già của Phan Khôi bằng một
loạt bài thơ mới, hoàn toàn mới về dung nội lẫn hình thức, đăng
trên tuần báo Phụ Nữ Tân Văn. Hai bài thơ đầu của Hồ Văn Hảo
(Tự tình với trăng và Con nhà thất nghiệp) được Nguyễn Thị
Manh Manh đem trình bày và phân tích trong một buổi diển thuyết
sôi nổi tại nhà Hội Khuyến học Nam Kỳ.
Năm 1934, ông đỗ bằng Thành Chung, đồng thời chiếm giải
nhất cuộc thi thơ bằng Pháp văn do Nha Học Chánh tổ chức.
Năm 1935, cộng tác với Cao Văn Chánh tục bản tờ Phụ Nữ
Tân Văn, nhưng ít lâu sau báo bị đóng cửa vì những bài đã kích và
châm biến Phạm Quỳnh, lúc bấy giờ là Thượng thư ở triều đình
Huế.
Năm 1936, đỗ Thủ khoa Kế toán Phòng Thương Mại Sài Gòn,
giúp việc tại Đông Dương Ngân Hàng từ đó đến năm 1945.
Năm 1945, ông tham gia kháng chiến và bị Pháp bắt giam ngày
23-9-1945.
Năm 1948, lại bị sở Mật thám quản thúc tại Cam Bốt.
Năm 1950, xuất bản tập Thơ Ý. Từ đó về sau sống với nghề kế
toán.
Năm 1968, Hồ Văn Hảo sống ẩn dật ở đồng quê, vùng Chợ
Lách (Vĩnh Long).
Ông đã soạn xong tập Loạn Lạc nhưng chưa xuất bản..
465
Trích thơ:
Con nhà thất nghiệp
Ngọn đèn leo lét,
Xác xơ một nóc nhà tranh;
Trên chiếu tan tành
Một trẻ thơ nằm im, xanh mét…
Ngoài, trời mưa xào xạc,
Gió tạt
Vào vách thưa
Mấy hạt mưa
Mảnh mùng tơi tan tác…
Lạnh lùng đứa bé
Cựa mình, cất tiếng ho ran,
Người mẹ vội vàng
Vuốt ve rằng: “Nín đi con nhé!
Cha con gần về tới,
Con ôi,
Nín đi nào!"
Dạ như bào,
Miệng cười, hàng lệ xối
Cánh cửa tre từ từ mở…
Một luồng gió lạnh chen vô,
Đèn vụt tắt; tối mò…
- Ai đó?
- Ai? Mình về đây!
Chút nữa đã bị còng;
Mới chen vào, họ la ăn trộm!
Nếu chân không chạy sớm
Mặt vợ con còn thấy chi mong!
Thôi! Bây giờ tiền đâu mua thuốc
Cho con; chết nỗi đi Trời!
Túng quá mới ra nghề nhơ nhuốc
Chắc mai đây nhịn đói lắm, mình ơi!
Hồi làm cu-li,Đến mua, tiệm còn bán chịu;
Nay sở bị đuổi ra, thì
466
Một đồng điếu
Họ cũng bảo: đi!
Âm thầm, vợ đốt đèn dầu,
Ra chiều buồn bã.
Chồng quên lạnh dạ,
Ngồi thở ra, chắc lưỡi lắc đầu
Ngoài, vẫn mưa xào xạc,
Trong, đứa bé ho ran…
Ngọn đèn tàn,
Hết dầu nên lu lạt...
Phụ Nữ Tân Văn, Sàigòn. Số 208 ngày 20-7-1933
Tình thâm
Đêm đã khuya, nhấp nhô sao trời thay bóng nguyệt;
Tàu con lướt sóng, xôn xao tiếng bủa ầm ầm.
Ngon giấc nồng, thêm cơn gió thoảng lạnh đêm thâm
Kẻ đắp chiếu, người trùm mền, nằm im la liệt.
Một làn sóng to ác nghiệt,
Từ từ đập táp vào hông;
Nghiêng… rồi ngã… chú tài công
La trời: "Úy! Mau mau chết!"
Người kịp thức, thấy mình giam vào trong bễ tối,
Giờ cuối cùng trông sao chớp, giã kiếp ngàn thu;
Kẻ dưới hầm hay nước phỏng, lung túng trong tù,
Chưa kịp thở, cũng không giây nào cho trăn trối,
Trong bể sống, một người đang lội,
Tay bồng con, tay nương vợ, chới với hụp trồi;
"Mình ơi, phải số nơi trời
Thì…" Làn sóng chẳng để người vợ nối:
Một búng máu hồng
Nhuộm trang phận bạc;
Tấm thân bèo dạt
Nghĩ khổ cho chồng.
"Mình ôi, ôm lấy trẻ thơ,
Thà em cam thác, còn giờ cứu con;
467
Chỉ lo cho trẻ vuông tròn…"
Im hơi lặng… từ từ chìm đáy nước,
Muốn kéo vợ, trông mình đã kiệt sức,
Rán nâng con lặn lội thẳng vào bờ.
Trông ra một dãi mịt mờ,
Xác người vô phúc dật dờ nơi nao?
Mấy hôm sau
Mặt rầu rầu,
Anh viếng mộ;
Ôi tình! Ôi nghĩa! Ôi nợ duyên ôi!
Cảm long em, anh dạ ngùi ngùi.
Gió chiều ù thổi,
Ấy hồn ta dung ruổi ngàn lau.
Đứa bé dàu dàu,
Trông tuồng ngơ ngẩn;
Dưới vuông khăn trắng,
Hai má ướt dầm…
Cô phần một nấm ngàn năm,
Rằng: đây có mảnh “tình thâm" chôn vùi!
Phụ Nữ Tân Văn, Sàigòn. Số 210 ngày 3-8-1933
Tình không
Khách lạ, xin dừng bước lãng du!
Lòng ta mang nặng một trời thu;
Bâng khuâng htương nhớ gì xa vắng,
Ôm khói tình không đến bạc đầu.
Vì bởi vô duyên với phấn hương,
Đau thương đành rải gió trăng ngàn
Muôn năm sông núi còn u uất
Ngậm ý thơ buồn gởi bốn phương.
Tim ai thổn thức chốn xa xôi
Khi biết lòng ta, đã muộn rồi!
Có kẻ vô tình, trong khiển hứng,
Ngâm nga nhắc lại mấy vần thôi.
(Thơ Ý, 2-4-1943)
468
Có lẽ nào ?
Qua cửa sổ , gió lùa bao sinh khí,
Lá và hoa cợt với nắng hanh vàng;
Chim trên cành vui cất tiếng ca vang;
Không khí hợp chất gì trong trẻo quá.
Nay là phút lòng tôi chia đôi ngã,
Bên thì nghe tiếng gọi của Tử thần,
Bên gượng cười nấn ná cảnh trời xuân ;
Hoa trong lọ sắp tàn cũng còn ráng nở.
Chết giữa lúc ngày xanh còn rực rỡ!
Chết khi lời chưa trút cạn tâm can,
Của ái ân chưa cạn một cung đàn,
Của da thịt chưa nếm mùi hương phấn !
Có lẽ nào ? Trong không gian vô tận,
Khi lòng trinh hé nụ với hoa đào,
Khi muôn tim hòa khúc nhạc tiêu đạo.
Muôn lá phổi thắm nhuần qua gió rộng,
Tôi cam chịu nghìn năm không cử động,
Mồ con còn ghi thân lớn , lẻ loi,
Da thắm tươi sẽ lúc nhúc rơi đói?
Cả vũ trụ tiêu tan còn chi nữa!
Người chớ bảo : Chết là buôn hết nợ,
Linh hồn sang một thế giới thần tiên;
Quá tham lam, đòi hạnh phúc nhãn tiền.
Tôi nâng chén thời gian chưa muốn cạn.
Tôi là kẻ đắm thuyền còm ômváng,
Sợ mặt trời tắt hẳn trên đầu tôi;
Sắp xa đời, tôi lại thấy yêu đời.
(Thơ Ý, 12-1934)
Bị đày
Trời đã bắt xuống trần làm thi sĩ,
Lại đầy tôi vào khoảng đất khô khan,
Thu không về, mà xuân cũng dở dang,
Đông kém rét; chỉ thấy toàn Mưa, Nắng
469
Nắng rất thấp nên hồn tôi trũi nặng
Mưa dầm dề, ngày đỗi thê lương.
Người lạ chi khi thấy kẻ bên đường
Đi thơ thẩn lượm từng cảm hứng?
Ấy là lúc ánh dương vừa chín ửng,
Một buổi mai, bừng dậy tiếng chim ca;
Gió ngọt ngào phơn phớt rợn làn da;
Tôi ngây ngất nhìn trời qua kẽ lá.
Nghĩ tội nghiệp cho linh hồn xa lạ
Buồn ly hương, cố níu phút giây vàng!
Ca hát mau, kẻo giờ thắm tiêu tan.
Chiều sẽ đến, âm u và chán nản.
Và đêm nữa, sao lạnh lùng vô hạn.
Chẳng làm say mạnh mẽ giác quan ta?
Nằm trong người, ta lặng giữa canh gà
Lời huyền bí của lòng ta thỏ thẻ.
Sao ít thế, và sao hờ hững thế?
Tim nồng nàn đem gởi chốn thờ ơ!
Kể làm chi người đẹp nói trong thơ;
Nàng cũng vậy, vô tình và phản trác,
Người trong mộng tạo ra vài khoảng khắc
Để mà nguôi quạnh quẽ của thời xuân.
Đau đớn thây cho kẻ lạc vườn trần,
Nhìn ngơ ngác, than ôi ! đời tẻ lạnh .
Chim còn nhỏ, ai nỡ vanh cánh,
Khiến ngăn đôi hồn rộng với không gian.
( Thơ Ý, 26-3-1944)
Ngày xưa
Tựa chớp mắt,bỗng thoảng qua trí nhớ
- Ta đâu ngờ ! – một kỷ niệm xa xôi,
Vừa êm tươi vừa vui sướng nhất đời,
Với tất cả mơ hồ trong rực rỡ
Một cãm giác như ru lòng tự ái.
470