Văn học miền nam - phần iii

  • 62 trang
  • file: .pdf

đang tải dữ liệu....

Tài liệu bị giới hạn, để xem hết nội dung vui lòng tải về máy tính.

Tải xuống - 62 trang

Nội dung text: Văn học miền nam - phần iii

Chương thứ tư
NGUỒN GỐC CHỮ QUỐC NGỮ
1. ĐẠI CƯƠNG
Danh từ chữ Quốc ngữ hay chữ Việt, người Việt chúng ta đã
dùng từ lâu, mặc dù nó không được chính danh. Bởi vì danh từ chữ
Quốc ngữ là danh từ chung, chỉ cho các thứ chữ của một nước,
chẳng hạn chữ Nôm (1) cũng là chữ Quốc ngữ của nước ta, nhưng
do chúng ta dùng lâu đã quen, nên danh từ chữ Quốc ngữ để chỉ
cho chữ viết chúng ta dùng ngày nay. Chữ nầy thoạt đầu do những
vị giáo sĩ Tây phương truyền đạo tại Việt Nam, họ mượn mẫu tự
La tinh, ghép lại để ghi âm địa danh và nhân vật địa phương, từ đó
nó đã trải qua các thời kỳ hình thành chữ Quốc ngữ, qua quá trình
hình thành, nó đã được sự đóng góp của người Việt cũng như
người ngoại quốc, phần chính vẫn là người Việt chúng ta.
Sự hình thành chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm ba thời kỳ :
· Thời kỳ sáng tạo từ năm 1621.
· Thời kỳ xây dựng năm 1651.
· Thời kỳ phát triển từ năm 1867.
Chúng ta biết rằng, khoảng giữa thế kỷ XVI, lúc ấy nước ta
chia thành Nam, Bắc triều. Năm 1533, có giáo sĩ Irigo (I-Nê-Khu),
người Âu, theo đường biển vào nước ta ở Ðàng Ngoài, tại Nam
Ðịnh để giảng đạo. Năm 1596, giáo sĩ Diago Advarte đến Ðàng
Trong ở một thời gian rồi bỏ đi, cho đến năm 1615, giáo sĩ
Francesco Buzomi đến lập Giáo Ðoàn Ðàng Trong (Mission de la
Cochinchine), đến năm 1627, giáo sĩ Ðắc Lộ (Alexandre de
Rhodes) mới lập Giáo Ðoàn Ðàng Ngoài (Mission de Tonkin).
Cả hai giáo đoàn nầy đều thuộc Dòng Tên, có một trung tâm
truyền giáo ở Áo Môn (Macao - Trung Quốc), vì trước kia người
Bồ Ðào Nha sang Trung Hoa buôn bán, họ ở bán đảo
Schangch’nan thuộc Quảng Châu, vào khoảng năm 1557, có bọn
cướp biển trú ẩn ở Áo Môn, thường hay khuấy nhiễu Quảng Châu,
nên người Trung Hoa nhờ các thương gia Bồ Ðào Nha dẹp bọn cướp
biển ấy, sau khi dẹp xong bọp cướp, người Bồ Ðào Nha xin phép nhà
269
cầm quyền Trung Hoa cho họ trú ngụ ở bán đảo Schangch’nan và Áo
Môn, mỗi năm họ đóng thuế cho chánh quyền Trung Hoa, cho đến
thế kỷ XX Áo Môn vẫn còn thuộc Bồ Ðào Nha.
Thuở đó, các nhà truyền giáo Tây phương muốn sang Viễn
đông, họ đều theo các thương thuyền Bồ Ðào Nha, cho nên họ
chọn Áo Môn làm trung tâm truyền giáo để hoạt động ở Trung
Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, nơi ấy có cả một Viện thần học
“Madre de Dieux” (Mẹ Ðức Chúa Trời).
Do đó các giáo sĩ người Âu thường từ Áo Môn sang Ðàng Ngoài
hay Ðàng Trong và ngược lại, họ thường dùng ngôn ngữ Bồ Ðào Nha
để giao dịch với nhau, những phúc trình truyền giáo hay thư từ gửi về
La Mã có khi họ viết chữ Bồ, có khi họ viết chữ La Tinh.
2. SỰ HÌNH THÀNH CHỮ QUỐC NGỮ
I.- Thời Kỳ Sáng Tạo Chữ Quốc Ngữ
Không phải chữ Quốc ngữ hình thành do sự ngẫu nhiên từ
những chữ phiên âm tiếng Việt, thực ra chữ Quốc ngữ hình thành
theo hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh
hóa các chữ Á Ðông nằm trong địa bàn truyền giáo của họ.
Thật vậy, tại Trung Hoa, Hoa ngữ được các nhà truyền giáo
dùng mẫu tự La Tinh phiên âm trước nhất, công việc nầy do hai
giáo sĩ Dòng Tên là Micac Ruggieri và Matteo Ricci đã soạn quyển
Ngữ vựng hay Tự vựng Bồ-Hoa, quyển nầy mỗi trang chia làm 3
cột: chữ Bồ, chữ Hán, phiên âm Hoa ngữ, tài liệu nầy soạn khoảng
năm 1584-1588, bảng viết tay còn lưu trử tại văn khố Dòng Tên ở
La Mã (Rome).
Năm 1598, giáo sĩ Ricca và Cateneo đã dùng ký hiệu để ghi các
thanh Hoa ngữ.
Tại Nhật Bản, các tác phẩm chữ Nhật đã được La tinh hóa, từ
năm 1592 đến năm 1596 có đến 10 tác phẩm loại nầy được in ra,
hai tác phẩm quan trọng sau đây đáng được nhắc đến:
1) Cuốn Giáo lý ghi bằng tiếng Nhật theo mẫu tự La Tinh có
tên là: Dotrina Jesus no Compania no Collegio Amacusa ni voite
superiores no vou xi no comuni core no fan to nasu mono nari,
Nengi, 1592.
270
2) Cuốn tự điển La - Bồ - Nhật: Dictionarium latino
lusitanicum ac Japonium (In Amacusa in Collegia Japonico Societa
Jesus, Anno 1595)
Ngoài ra còn có sách ngữ pháp Nhật được in theo mẫu tự a, b, c
vào năm 1603-1604.
Tại Việt Nam, thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ có thể chia ra
làm 2 giai đoạn :
· Giai đoạn phiên âm.
· Giai đoạn cấu tạo câu.
1.- Giai đoạn phiên âm.
Về nguồn gốc, có lẽ câu sau đây là một dòng chữ xuất hiện đầu
tiên, trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
"Con gno muon bau tlom laom Hoalaom chian".
Câu nầy, theo giáo sĩ Christofora Borri (2), là câu mà các giáo
sĩ Đàng Trong đã dùng trước khi ông có mặt tại đây, nó có nghĩa
là: Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng ?
Danh từ Hoa Lang, không rõ do đâu mà có, nhưng đó là danh
từ do người Việt Nam thời bấy giờ dùng để chỉ cho người Bồ Ðào
Nha, và sau đó được dùng để gọi chung các nhà truyền giáo Tây
Phương. Như vậy câu trên là câu các nhà truyền giáo Tây phương
muốn hỏi một người Việt rằng: "Muốn vào đạo Thiên chúa
chăng?" Vì lẽ câu nói không diễn tả được rõ ý nên Linh mục
Buzomi đã sữa lại như sau : "Muon bau dau Christiam chiam ?"
(Muốn vào đạo Christiang chăng ?).
Ðây là câu trích trong quyển sách của Christoforo Borris xuất
bản năm 1631 tại La Mã, viết bằng chữ Ý (3). Tuy vậy, chúng ta
có thể coi những chữ phiên âm trong sách nầy đã được ông dùng
trong thời gian từ 1618 đến 1621, là thời gian ông sống ở Ðàng
Trong.
Phiên âm: Nghĩa
Tunchim: Ðông Kinh
Ainam: Hải Nam
Kemoi: Kẻ mọi
Cacciam: Cả chàm (Kẻ Chàm)
271
Sinunua: Xứ Hóa (Thuận Hóa)
Quamguya: Quảng Nghĩa
Quignin: Qui Nhơn
Dàdèn, lùt: Đã đến lúc
Dàdèn lùt: Ðã đến lúc
Scin mocaij: Xin một cái
Chià: Trà
Cò: Có
.......
Onsaij: Ông sãi
Quanghia: Quảng Nghĩa
Nuoecman: Nước mặn
Da, an, nua: Ðã ăn nữa,
Da, an, het: Ðã ăn hết
Omgne: Ông nghè
Tuijciam,biet: Tui chẳng biết
Onsaij di lay: Ông Sãi đi lại
Bàncò: Bàn Cổ
Maa: Ma
Maqui, Macò: Ma quỉ, ma quái
Bũa: Vua
Chiuna: Chúa
Bản phúc trình của Linh mục João Roig viết bằng chữ Bồ Ðào
Nha tại Áo Môn ngày 20-11-1621, để gửi về La Mã, trong ấy có
phiên âm vài danh từ như sau:
An nam: An Nam
Sinoa: Xứ Hóa
Usai: Ông Sãi
Ungne: Ông nghè
On trũ: Ông trùm
272
Ca cham: Ca chàm (kẻ chàm, tức Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng
Nam dinh, thời ấy dân chúng gọi là Cả Chàm hay Dinh Chàm)
Nuocman: Nước Mặn
Bafu: Bà phủ
Sai Tubin: Sãi Từ Bình ( ? )
Banco: Bàn Cổ
Oundelinh: Ông Ðề Lĩnh
Cùng năm ấy, Linh mục Gaspa Luis cũng viết một bảng tường
trình bằng La văn tại Áo Môn ngày 12-12-1621 gửi cho Linh mục
Mutio Vitelleschi ở La Mã, để báo cáo về giáo đoàn Ðàng Trong,
trong ấy có dùng vài phiên âm :
Cacham: Kẻ chàm
Nuocman: Nước Mặn
Ongne, Ungué: Ông nghè
Bancô: Bàn Cổ
Ðến ngày 16-6-1625, giáo sĩ Ðắc Lộ có viết một lá thư bằng Bồ
văn gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas, trong ấy có vài phiên âm :
Ainão: Hải Nam
Tunquim, Tunquin: Ðông Kinh
Thêm một tài liệu khác Gaspar Luis viết bằng La văn ngày
1-1-1626 tại Nước Mặn để gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở
La Mã, trong ấy có phiên âm một số địa danh và danh từ:
Fayfó: Hải phố (Fayfo: Hội An)
Cacham: Kẻ chàm
Nuocman: Nước Mặn
Pullocambi: ?
Dinh cham: Dinh chàm
Quanghia: Quảng Nghĩa
Quinhin: Qui nhơn
Ranran: Ran ran ( tức là sông Ðà Rằng ở Phú Yên)
Bendâ: Bến đá
Bôdê: Bồ đề
273
Ondelimbay: Ông Ðề Lĩnh Bảy
Ondedoc: Ông Ðề đốc
Unghe chieu: Ông nghè Chiêu
Nhit la khaun, khaun la nhit: Nhứt là không, không là nhứt
Và Linh mục Antonio de Fontes người Bồ Ðào Nha, đã có đến
ở Ðàng Trong năm 1624 và Dinh Chàm với Linh mục Pina và Ðắc
Lộ, cũng ngày 1-1-1626, Linh mục Fontes viết tại Hội An một bản
tường trình bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi là Bề
Trên Cả Dòng Tên ở La Mã, bảng tường trình nầy gồm có 3 phần,
trong ấy cũng cho chúng ta biết thuở ấy giáo đoàn Ðàng Trong có
3 cơ sở: Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Qui
Nhơn). Trong bảng tường trình nầy, có các phiên âm:
Digcham: Dinh Chàm
Nuocman: Nước Mặn
Quinhin: Qui Nhơn
Sinua, Sinuâ: Xứ Hóa
Orancaya: ?
Quan: Quảng (Quảng Nam)
Xabin: Xá Bình ?
Bếndá: Bến đá
Bude: Bồ đề
Ondelimbay: Ông Ðề Lĩnh Bảy
Ondedóc: Ông đề đốc
Onghe Chieu: Ông nghè Chiêu
Nhít la khấu, khấu la nhít: Nhứt là không, không là nhứt
Dinh Cham: Dinh Chàm
Sinóa: Xứ Hóa
Ngày 13-7-1626, Linh mục Francesco Buzomi viết một lá thư
chữ Ý gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, cách phiên âm có tiến
triển phần nào, vì các danh từ ghi theo đơn âm như ngày nay, các
chữ phiên âm trong bức thư nầy gồm có:
Xán tí: Xán tí (Thượng đế)
Thiên chu: Thiên chủ (Thiên chúa)
274
Thiên chũ xán tí: Thiên chủ thượng đế
Ngaoc huan: Ngọc hoàng
Cho đến năm 1631, có thêm hai tài liệu của Ðắc Lộ: một vào
ngày 16-1-1631, ông có viết một bức thư gửi cho Linh mục Nuno
Mascarenhas ở La Mã , trong ấy chỉ tìm thấy có một chữ phiên âm
Thinhũa: Thanh Hóa, và một bản văn khác thuật lại việc ông cùng
Linh mục Pedro Marques tới cửa Bạng (Thanh Hóa) vào ngày 19-
3-1627 cho đến lúc Linh mục Antonio F. Cardin đến Thăng Long
ngày 15-3-1631 (trong chuyến đi ấy, có các Linh mục Gasparo
d’Amiral, André Palmeiro, Antonio de Fontes), tài liệu nầy gồm 2
trang rưỡi chữ, viết trên giấy khổ 16 x 23 cm, trong ấy chỉ phiên
âm có mấy chữ :
Sinoa: Xứ Hóa (Thuận Hóa)
Anná: An nam
Sai: Sãi
Mía: Mía (nhà tạm trú)
Những tài liệu phiên âm trên, cho chúng ta thấy phần nào sự
manh nha hình thành chữ Quốc Ngữ trong các năm từ 1621 đến
năm 1631. Trong mười năm đó, chúng ta thấy sự phiên âm không
mấy tiến triển, chưa có sự thống nhất nào cả, chẳng hạn như danh
từ xứ Hóa, họ đã phiên âm :
Sinoa (Jão Roig 20-11-1621)
Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes 1-1-1626)
Sinoa (Ðắc Lộ 1631)
Danh từ Ông Nghè :
Omgne (Christoforo Borri 1618-1621)
Ungne (Jão Roig 20-11-1621)
Ongne, Ungué ( Gaspar Luis 12-12-1621)
Unghe (Gaspar Luis 1-1-1626)
Onghe (Antonio de Fontes 1-1-1626)
2.- Giai Ðoạn Cấu Tạo Câu.
a.- Sự đóng góp của Gasparo d’Amiral
275
Giai đoạn kế tiếp được coi như khởi sự từ năm 1632 với những
phiên âm của Gasparo d’Amiral, trong giai đoạn nầy, chúng ta thấy
vai trò đóng góp cho sự hình thành chữ Quốc ngữ của Gasparo
d’Amiral rất quan trọng, ông phiên âm có phương pháp. Tài liệu
dẫn sau đây cho chúng ta thấy rõ Ðắc Lộ đã theo phương pháp của
ông để phiên âm trước khi dựa vào quyển tự điển Bồ Ðào Nha -
Annam cũng của ông, để Ðắc Lộ soạn quyển tự vị "An Nam - Bồ
Ðào Nha - La Tinh"
Ðể hiểu rõ điều chúng tôi vừa đề cập tới, không gì hơn là chúng
ta nhìn lại cuộc đời và vết đi của họ, chúng ta sẽ thấy ảnh hưởng
của Gasparo d’Amiral đối với Ðắc Lộ.
Gasparo d’Amiral sinh năm 1592 tại Bồ Ðào Nha, gia nhập
Dòng Tên ngày 1-7-1608, ông đã làm giáo sư dạy La văn, Triết
học, Thần học tại các học viện và đại học Evora, Braga, Coinbra ở
Bồ Ðào Nha.
Năm 1623, Gasparo d’Amiral đến Áo Môn, vào tháng 10 năm
1926, ông cùng với Thầy Paulus Saito (1577-1633 người Nhật)
đến Ðàng Ngoài cho đến tháng 5 năm 1630 cả hai cùng với Linh
mục Ðắc Lộ và Pedro Marques về Áo Môn. Ngày 18-2-1631
Gasparo cùng 3 Linh mục khác là André Palmeiro, Antonio de
Fontes và Antonio F. Cardim từ Áo Môn đáp tàu Bồ Ðào Nha đến
cửa Bạng (Thanh Hóa) và đến ngày 15-3-1631, các Linh mục nầy
mới đến Kẻ Chợ (Thăng Long).
Sau đó Linh mục Palmeiro và Fontes trở về Áo Môn còn
Amiral và Cardim ở lại tiếp tục công cuộc truyền giáo tại Ðàng
Ngoài. Năm 1638, Linh mục Amiral được gọi về giữ chức Viện
Trưởng Viện thần học tại Áo Môn, như vậy ông đã ở Ðàng Ngoài
được 7 năm.
Ðến năm 1641, ông được cử làm Phó Giám Tỉnh Dòng Tên hai
tỉnh Nhật và Trung Hoa (gồm các nước Nhật, Việt Nam, Lào,
Cam-pu-chia, Thái Lan và Trung Hoa - Áo Môn, Quảng Ðông,
Quảng Tây). Năm 1645, ông đáp tàu từ Áo Môn đi Ðàng Ngoài,
khi tàu đến gần đảo Hải Nam bị đắm, do đó ông bị chết đuối vào
ngày 23-12-1645.
Trong 7 năm ở Ðàng Ngoài, Gasparo d’Amiral còn để lại 2 tài
liệu liên quan đến chữ Quốc Ngữ. Tài liệu 1, ông viết bằng Bồ văn
276
tại Kẻ Chợ vào ngày 31-12-1632 nhan đề: "Annua do reino de
Annam do anno de 1632, pera o Pe André Palmeiro de Compa de
Jesu, Visitator das Provincias de Japan, e China" (Bảng tường trình
hàng năm về nước An nam năm 1632, gửi cha André Palmeiro,
Dòng Tên, giám sát các tỉnh Nhật và Trung Hoa). Tài liệu nầy hiện
lưu trử tại văn khố Dòng Tên La Mã, trong đó có một số phiên âm
như sau:
Tun kim: Ðông Kinh, chỉ cho xứ An Nam
Ðàng tlão: Ðàng Trong
Ðàng ngoày: Ðàng Ngoài
Ðàng tlên: Ðàng trên
Oũ nghe: Ông nghè
nhà thượng dày: nhà thượng đài
nhà ti, nhà hién: nhà ti, nhà hiến
nhà phũ: nhà phủ
nhà huyẹn: nhà huyện
oũ khơũ: Ông Khổng ( Khổng Phu Tử)
Ðức laõ: Ðức Long; niên hiệu Ðức Long (1629-1634)
Vĩnh Tộ: Vĩnh Tộ; niên hiệu Vĩnh Tộ (1620-1628)
Bua: Vua
Tế Kì đạo: Tế kỳ đạo
Ðức vương: Ðức Vương
Chúa oũ: Chúa Ông ( tức Trịnh Tráng)
Chúa tũ: Chúa Tung (Trịnh Vân: Tung Quận Công),
Chúa dũ: Chúa Dũng (Trịnh Khải: Dũng Quận Công)
Chúa quành: Chúa Quỳnh (Trịnh Lệ: Quỳnh quận công)
Chúa cả: Chúa cả (Trịnh Tạc, vào thời nầy Ðàng Ngoài có
5 chúa là: Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Vân, Trịnh Khải, Trịnh
Lệ mà chỉ 2 chúa có quyền hành mà thôi)
Thanh đô vương: Thanh Ðô Vương
Chúa triết: Chúa Triết (Trịnh Tùng)
Kẻ chợ: Kẻ Chợ (Thăng Long)
277
yêu nhău: yêu nhau
oũ phô mả liêu : Ông Phò Mã Liêu (con rễ Trịnh Tráng)
Ðàng Ngoằy: Ðàng Ngoài
Quãng: Quảng
Tàm đàng: Tàm Ðàng
Bên đoũ đa: Bên Ðống Ða
tày: Tầy
lằng bôũ bàu: làng Bông Bầu
Cô bệt: Cô Bệt
Tri yếu: tri yếu
kẻ hằii: kẻ hầu
ăn dương huyẹn: An Dương huyện
coũ thằn: công thành
Thíc ca: Thích Ca (Phật)
Phổ lô xã: Phổ lô xã
Sãy uãy: Sãi vãi
Hộy ăn xả: Hội An xã
huyẹn uịnh lạy: huyện Vĩnh Lại
Thầi uăn Chật: Thầy Văn Chật
làng Kẻ tranh xuyên: Làng Kẻ Tranh Xuyên
Kẻ trãng: Kẻ Trang
Sấm phúc xả: Sấm Phúc xã
Nghỹa ăn xả: Nghĩa An xã
huyẹn bạyc hặc: Huyện Bạch Hạc
thầi phù thủi: Thầy phù thủy
Oũ jà nhạc: Ông già Nhạc
Oũ phu mã kiêm: Ông Phò mã Kiêm
bà: bà (?)
chúa bàng: chúa Bằng
thăn khê: Thanh Khê
278
hàng bè: hàng Bè
hàng bút: hàng Bút
cữa nam: cửa Nam
kẻ ăn lẵng: kẻ An lãng
hàng nấm: hàng nắm
đinh hàng: Ðinh hàng
càii iền: Cầu Yên
hàng thuõc: hàng thuốc
oũ đô đốc hạ : Ông Ðô Ðốc Hạ
Oũ phũ mã nhăm: Ông Phò mã Nhâm
Oũ chưỡng hương: Ông chưởng Hương
Thầi: Thầy
đức oũ hồe: Ðức ông Huề
thuyèn thũỉ: thuyền thủy
Quãng liẹt xã: Quãng liệt xã
giỗ: giỗ
chặp: chạp
mă: ma
kẽ uạc: kẻ Vạc
cỗ: cỗ
oũ chưỡng quế: ông chưởng Quế
tình: tình
nhũộn: nhuận
tháng: tháng
cốt bõý: cốt bói
Kẽ lăm huyẹn toũ sơn: kẻ Lâm, huyện Tống Sơn
Nghệ an: Nghệ An
Bố chính: Bố chính
thuặn hốe: Thuận Hóa
huyẹn nghi xuon: huyện Nghi Xuân
279
huyẹn Thinh Chương: huyện Thanh Chương
làng cầii: làng Cầu
nhà nga: nhà nga
đậii xá: đậu xá
vàng may: Vàng May
đức bà sang phú: đức bà sang phú
oũ bà phủ: ông bà phủ
kẽ mộc: kẻ Mộc
kẽ bàng: kẻ Bàng
an nam: An Nam
Tài liệu thứ hai cũng soạn bằng Bồ văn tại kẻ Chợ ngày 25-3-
1637, có nhan đề: "Relacam dos Catequista da Christamdade de
Tumk e seu modo de proceder pera o Pe Manoel Dias, Vissitador
de Jappão e China" (Tường thuật về các Thầy giảng của giáo đoàn
Ðàng Ngoài và về cách thức tiến hành của họ, gửi cha Manoel
Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa), tài liệu nầy hiện lưu trử
tại Văn Khố Hàn Lâm Viện Sử Học Hoàng Gia Madrid Bồ Ðào
Nha. Gồm có một số phiên âm sau đây:
Sãy: Sãi
đức: đức
Chúa thanh đô: Chúa Thanh Ðô
thầy: thầy
định: định
nhin: Nhơn (tên)
Nghệ an: Nghệ an
lạy: lạy
tri: Tri (tên)
bùi: Bùi (tên)
Quang: Quảng (tên)
tháng: Thắng (tên)
Coũ thàn: Công Thành
Sướng: Sướng (tên)
280
đàng ngoài: Ðàng Ngoài
già: Già (tên)
Vó: Vó (tên)
nân: Nân (tên)
lồ: Lồ (tên)
đôủ thành: Ðông thành (tên)
Kẻ chợ: Kẻ Chợ (tên)
Trong hai tài liệu nầy, tài liệu thứ nhất có gần 400 chữ phiên
âm, chưa được thống nhất cách dùng mẫu tự ghi âm.
Ví dụ:
Âm a ghi ă (Hội ăn xã) hay ghi a (Nghệ an)
Âm ò ghi ô (oũ phô mả liêu) hay ũ (oũ phũ mả kiêm)
Có một số âm, phụ âm, dấu giọng không như ngày nay:
Các âm Å ghi â (hàng nấm)
--------- ê - e (huyẹn, hién)
--------- y - i (thầi)
--------- o - õ (bõy)
--------- âu - ăii (hÅii)
Các phụ âm: ng ghi ũ (oũ)
--------------- ch - yc (bạyc)
Các dấu giọng: ? ghi ~ (cữa nam, phũ)
------------------ ~ - ? (Sấm phú xả, Nghỹa ăn xả)
Tuy nhiên Gasparo d’Amiral cũng ghi được các âm như ngày nay:
a (nghệ an ) ă (hàng nắm) â (thầi)
ê (nghệ) ô (giỗ) ơ (chợ)
i (nghi xuôn) u (yêu nhău) ư (thương, vương)
Có đủ dấu giọng:
không dấu (nam, đô)
’ (Thíc ca)
` (thầi phù thũi)
281
? (chúa cả)
~ (giỗ)
. (vĩnh tộ)
Tài liệu thứ hai viết sau 5 năm, một số chữ viết ngày nay giống
y như vậy: đức, chúa thanh đô, thầy, Nghệ an, lạy, định ...
Do đó chúng ta thấy Gasparo d’Amiral ghi âm tiến bộ hơn các
giáo sĩ khác, đó cũng là điều dĩ nhiên bởi vì từ tài liệu của Jão Roiz
hay Gaspar Luis viết từ năm 1621, đến tài liệu thứ nhất của
Gasparo d’Amiral có khoảng cách biệt trên 10 năm.
b.- Sự đóng góp của Linh mục Ðắc Lộ.
Linh mục Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người được Pháp đề
cao đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ, mang lại sự khai hóa cho dân
282
tộc Việt Nam, với chiêu bài nầy để che đậy hành động thực dân,
xâm chiếm lãnh thổ và cai trị hà khắc dân tộc chúng ta. Ðể hiểu rõ
vấn đề nầy, chúng ta cần lướt qua tiểu sử và hành trình truyền giáo
của Ðắc Lộ.
Ðắc Lộ sinh ngày 15-3-1591 tại Comtat Venaissin, tỉnh
Avignon, miền Nam nước Pháp, tổ tiên ông gốc Do Thái. Tổ phụ
của ông đã di cư từ Tây Ban Nha sang Avignon vào giữa thế kỷ
XVI, thân sinh ông là Benadin II de Rhodes, được liệt vào hàng
thân hào, nhân sĩ trong vùng.
Ðắc Lộ gia nhập Dòng Tên ở La Mã ngày 14-4-1612, học tập
chuyên về thần học và toán học tại học viện Saint André du
Quirinal, thụ phong linh mục tại La Mã năm 1618. Cũng trong năm
nầy, ông được phép sang Ðông Nam Á truyền giáo, ông đến
Lisbonne thủ đô Bồ Ðào Nha, rồi từ đây đáp tàu đi Áo Môn ngày
04-4-1619, vì có ghé qua Goa (Ấn Ðộ) nên ông đến Áo Môn ngày
29-5-1623, ông đặt chân lên Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 12
năm 1624 tại Ðà Nẳng, cùng với các linh mục Gabriel de Mattos
và một giáo sĩ Nhật.
Ðắc Lộ đến cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm thuộc Quảng Nam
dinh, nơi đây có Linh mục Francisco de Pina (sinh năm 1585 tại
Bồ Ðào Nha, đến Ðàng Trong năm 1617 và chết đuối ở Quảng
Nam năm 1625) và Antonio de Fontes (đến Ðàng Trong tháng 12
năm 1624), tại đây Ðắc Lộ học tiếng Việt với Francisco de Pina,
tháng 7 năm 1626 ông rời Ðàng Trong về Áo Môn, ngày 19-3-
1627, ông cùng với Linh mục Pierre Marquez đến của Bang
(Thanh Hóa), ở đây, hai ông có yết kiến Trịnh Tráng, rồi sau đó
theo chúa Trịnh ra Thăng Long, thời gian nầy hai Linh mục lập
giáo đoàn Ðàng Ngoài, tháng 5 năm 1630, chúa Trịnh cấm đạo,
trục xuất các giáo sĩ, Ðắc Lộ trở về Áo Môn.
Từ năm 1630 đến năm 1640, Ðắc Lộ dạy thần học ở học viện
thần học Áo Môn. năm 1640, ông được cử đến Ðàng Trong làm Bề
Trên, thay thế Linh mục Buzomi vừa từ trần tại Quảng Nam dinh,
ông ở đây cho đến ngày 3-7-1645, bị bắt buộc phải rời cơ sở truyền
giáo Thanh Chiêm, theo lệnh của quan Cai bộ áp dụng án trục xuất
các giáo sĩ của chúa Nguyễn. Kể từ đó, ông rời hẳn nước Việt
Nam, trở lại Áo Môn ông dạy tiếng Việt ở Học viện Thần Học,
283
ngày 20-12 năm 1645 ông đáp tàu từ Áo Môn đi Âu Châu, nhằm
mục đích vận động thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam.
Ngày 16-11-1654,Toà thánh La Mã cử Ðắc Lộ làm Bề Trên
của phái đoàn truyền giáo ở Ba Tư. Ðầu tháng 11-1655, ông đáp
tàu từ Marseille đi Ispaham thủ đô Ba Tư, và tại đây ông đã trút
hơi thở cuối cùng vào ngày 5 tháng 11 năm 1660.
Giai đoạn trước, giáo sĩ Ðắc Lộ có để lại 3 tài liệu về chữ Quốc
Ngữ vào năm 1625 và 1631 đã dẫn ở trên và giai đoạn sau nầy,
ông cũng để lại 3 tài liệu khác viết vào các năm 1636, 1644, 1647.
Tài liệu năm 1634, viết tay có nhan đề: "Tunchinenois
Historiae libri duo quorum altero status temporalis hujus Regni,
altero mirabiles evangelicae praedications progressus refuruntur.
Coeptae per Patres Societatis Jesu, ab Anno 1627 ad Annum 1636"
( Lịch sử Ðàng Ngoài và những bước tiến triển lớn lao mà phúc âm
rao giảng đã làm ở nước nầy để cải hóa lương dân, từ năm 1627
đến năm 1636) Bản nầy ghi bằng La văn gồm 2 quyển, lưu trử tại
Văn khố Dòng Tên ở La Mã.
Các chữ phiên âm trong quyển một.
Tung: Ðông
kin: kinh
Annam: An Nam
Ai nam: Hải Nam
Chúacanh: Chúa Canh
Che ce: kẻ Chợ (Thăng Long)
Chúa bàng: Chúa Bàng (đúng ra là Bình; Bình An Vương
Trịnh Tùng)
Chúa õu: Chúa ông
Chúa thanh đô: Chúa Thanh Ðô (Thanh Ðô Vương Trịnh Tráng)
uuan: vương
min: minh
bát min: bất minh
thuam: thuận
uan: văn
284
uu: vũ
gna ti: nhà ti
gna hien: nhà hiến
Cai phu: cai phủ
Cai huyen: cai huyện
Bua: vua
den: đền
sin do: sinh đồ
huan cong: hương cống
tin si: tiến sĩ
tam iau: tam giáo
dạu nhu: đạo Nhu (nho)
dạu thíc: đạo Thích
Thicca, Thic ca, Thiccả: Thích ca
Sai: Sãi
sai ca: Sãi cả
lautu: Lão tử
Giô: giỗ
Cu hồn: Cô hồn
ba hon: ba hồn
Chin via: Chín vía
dum: Ðồng (tên)
Các chữ phiên âm trong quyển hai
Cửa bang: Cửa Bạng (Thanh Hóa)
Phạt: Phật
bụt: Bụt
dang: Ðàng
ciiia oũ: chúa ông
ciiia ban uuan: chúa Bằng vương
ciii sai: chúa Sãi
285
ciii canh: chúa canh
thinh hoa: Thanh Hóa
thai: thầy
sai vai: Sãi Vãi
Che vich: kẻ vích (cửa Vích, cửa sông ở phía Bắc Thanh Hóa)
Che no: Kẻ Nộ
Gne an: Nghệ An
bochin: bố chính
Rum: Rum
kiemthuong: Kiêm Thượng
Phuchen: Phục chân
cà: Cà
cã: cả
cá: cá
tlẽ: trẻ
tle: tre
Tài liệu năm 1644, Ðắc Lộ viết bằng Bồ văn tại Thanh Chiêm,
nhan đề: "Relacão do glorioso Martirio de Andre Cathequista
Protomartir de Cochinchiana alanceado, e degolado em Cachão no
26 de Julho de 1644 Tendo de Idade dezanove annos" (Tường
thuật cuộc tử đạo vinh hiển của Thầy giảng An-Rê, vị tử đạo tiên
khởi ở Ðàng Trong, đã bị đâm chém tại kẻ Chàm ngày 26-7-1644,
tử đạo lúc 19 tuổi), tài liệu nầy có những chữ phiên âm và câu
phiên âm :
Ounghebo, Oũnghebo: Ông Nghè Bộ
Giũ nghĩa cũ d chúa Jesu cho den het hoy, cho den blon doy:
Giữ nghĩ cùng đức chúa Jesu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời.
Tài liệu năm 1647, Ðắc Lộ viết bằng La văn tại Macassar ngày
4-6-1647 có nhan đề : "Alexandre Rhodes è Societate jesu terra
marique decẽ annorũ Itinerarium" ( Cuộc hành trình mười năm trên
bộ, dưới biển của Ðắc Lộ thuộc Dòng Tên), tài liệu nầy có các
phiên âm như sau:
Ciam: Chàm
286
Ranran: Ran ran
Ké han: Kẻ Hàn
On ghe bo: Ông nghè Bộ
ke cham: kẻ Chàm
halam: Hà Lan
Cai tlam, Caitlam: Cát Lâm
ben da: Bến đá
Qui nhin: Qui Nhơn
Nam binh: Nam Bình
Bao bom: Bầu vom
Quan Ghia: Quảng Nghĩa
Nuoc man: Nước Mặn
bau beo: Bầu Bèo (?)
liem cum: Liêm công
Quanghia: Quảng Nghĩa
Baubom: Bầu Vom
bochinh: Bố chính
Oũ ghe bo: Ông nghè Bộ
Sau khi đối chiếu tiểu sử của Gasparo d’Amiral và Ðắc Lộ
cùng các tài liệu phiên âm như trên, chúng ta có nhận định sau :
1) Linh mục Gasparo d’Amiral phiên âm có tự dạng gần với
chữ Việt chúng ta viết ngày nay, hơn là các phiên âm của Ðắc Lộ,
thử so sánh :
Tài liệu Gasparo d’Amiral 1632 : Tài liệu Ðắc Lộ 1636
----------------- Thanh đô vương -------- thanh đô
----------------- Nhà ti --------------------- gna ti
----------------- Nhà hién ----------------- gna hien
----------------- Nghệ ăn, nghệ an ------ Gne an
----------------- Bố chính ----------------- bochin
2) Gasparo d’Amiral phân biệt được một số dấu giọng như đã
vạch ra ở phần trước, trong khi Ðắc Lộ lại ít dùng dấu giọng.
287
3) Ngay trong cách phiên âm của Ðắc Lộ, tài liệu sau phiên âm
kém hơn tài liệu trước. Trái lại, Gasparo d’Amiral phiên âm tài liệu
năm 1637 khá hơn tài liệu năm 1632.
4) Từ nÅm 1632 Gasparo d’Amiral đã phan biệt được tiếng
Việt đơn âm, trong khi đó tài liệu nÅm 1647 của Đắc Lộ vẫn còn
phiên âm: halam (Hà Lan), Caitlam (Cát Lâm), Quanghia (Quảng
Nghĩa), bochinh (Bố chính).
Năm 1632, bảng tường trình của Gasparo d’Amiral gửi cho
Linh mục André Palmeiro, giám sát các tỉnh Nhật, trung Hoa lúc
đó Ðắc Lộ cũng ở tại Áo Môn (1630-1640), là người tha thiết với
các giáo đoàn truyền giáo tại Việt Nam, chắc chắn Ðắc Lộ có xem
qua bảng tường trình nầy.
Từ năm 1638-1645 Gasparo d’Amiral ở tại Áo Môn, như vậy
họ đã có thời gian ở bên nhau 2 năm 1638-1640, rồi tháng 7 năm
1645 đến 20-12-1645 Ðắc Lộ từ Việt Nam trở lại Viện Thần Học
Áo Môn, phụ trách dạy tiếng Việt, còn Gasparo d’Amiral đã soạn
quyển Tự vựng Việt La, như vậy cả hai có thêm thời gian ở bên
cạnh nhau, lại cùng hoạt động chung bộ môn tiếng Việt, điều đó
cho ta thấy chắc chắn Ðắc Lộ có chịu ảnh hưởng của Gasparo
d’Amiral về lãnh vực tiếng Việt.
Tài liệu Ðắc Lộ viết năm 1647 tại Macassar, chứng tỏ rằng sau
khi ông rời Việt Nam ngày 20-12-1645, ông vẫn chưa có được một hệ
thống phiên âm vững chắc và gần gủi với chữ Quốc ngữ ngày nay.
c.- Sự đóng góp của Linh mục Antonio Barbosa
Antonio sanh năm 1594 tại ville de Arrifana de Sonza, Bồ Ðào
Nha, gia nhập Dòng Tên vào ngày 13-3-1624. Năm 1629, ông
được cử đến truyền giáo ở Ðàng Trong và đến tháng 4 năm 1636,
ông có đến Ðàng Ngoài truyền giáo. Cho đến tháng 5 năm 1642, vì
lý do sức khỏe, ông phải trở về Áo Môn tịnh dưỡng. Cũng do tình
trạng sức khỏe không tốt nên sau một thời gian tịnh dưỡng, ông rời
Áo Môn đi Goa và ông đã từ trần trên đường đến Goa năm 1647.
Mặc dù ngày nay Antonio không có để lại tài liệu Quốc ngữ
nào, nhưng Ðắc Lộ đã cho biết : "Tôi lợi dụng công việc của các
giáo sĩ khác cũng thuộc Dòng Tên, nhất là của Gasparo d’Amiral
và Antonio Barbosa. Cả hai ông nầy, mỗi ông đều làm một cuốn tự
288