Nội dung text: Luận ngữ khổng tử
Luận Ngữ
Khổng Tử
论语
Phùng Hoài Ngọc
biên dịch – chủ giải - bàn luận
Đại học An Giang, 2011
Khổng tử dạy học
1 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
MỤC LỤC
Lời nói đầu. 2
1. 学而 Học nhi 8
2. 为政Vi chính. 13
3. 八佾 Bát dật 20
4. 里仁 Lý nhân. 29
5. 公冶长Công Dã Tràng. 35
6. 雍也Ung dã. 44
7. 述而 Thuật nhi 53
8. 泰伯 Thái Bá. 63
9. 子罕Tử hãn. 69
10. 言乡党Hƣơng đảng. 78
11. 先进Tiên tiến. 85
12. 颜渊 Nhan Uyên. 95
13. 子路Tử Lộ. 103
14. 宪问Hiến vấn. 113
15. 卫灵公Vệ Linh công. 126
16. 季氏 Quí thị 137
17. 阳货 Dƣơng Hóa. 143
18. 微子 Vi Tử.. 152
19. 子张 Tử Trƣơng. 157
20. 尧曰 Nghiêu viết 165
2 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
BÀI TẬP NGHIÊN CỨU LUẬN NGỮ.. 167
PHỤ LỤC- SƠ LƢỢC LỊCH SỬ TRUNG QUỐC………………………..…………..168
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………..169
LỜI NÓI ĐẦU
Văn học Trung Quốc thời cổ đại còn gọi Văn học tiên Tần, có 4 thành tựu chính:
1/Thần thoại,
2/ Ca dao dân ca (Kinh Thi)
3/ Khuất Nguyên và Ly Tao,
4/ Bách gia chƣ tử.
Trong Bách gia chư tử, quan trọng nhất là Khổng tử và Nho học.
Trong Nho học, Luận ngữ mang tính tiêu biểu, đƣợc coi là tập đại thành của Nho học.
Luận ngữ cũng là tác phẩm đầu tiên của thể loại tản văn cổ đại.
Khổng tử – Nho học
Khổng tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trƣớc CN, mất tháng 4 năm
479 tr.CN, thọ 73 tuổi.
Nho học là khoa học giáo dục do Khổng tử sáng lập, Mạnh tử đời sau nối tiếp và hoàn chỉnh về
cơ bản.
Giải thích nội dung chữ “Nho”: 儒.
Thời Tây Chu, một chức quan coi việc lễ-nhạc gọi là Nho quan (儒官). Đời Đông Chu, học
thuyết Khổng tử ra đời rất coi trọng lễ- nhạc nên đời sau gọi tên là Nho học (Xem bài 1 thiên
Tiên tiến trang 76).
Hơn hai thế kỷ sau khi Khổng tử qua đời, Nho học mới đƣợc chính thức phổ biến, áp dụng rộng
rãi, từ thời nhà Hán (206 tr.CN- 220 CN) kéo dài đến nhà Thanh. Qua mỗi triều đại, lại có các
nhà nho nổi tiếng biên soạn gia giảm, chú giải, bàn luận… Tất cả những tác gia ấy đƣợc gọi
chung là bậc thánh hiền, trong đó Khổng tử là đại thánh, Mạnh Tử là á thánh (hai vị đứng đầu
Nho gia).
3 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
Ở ViệtNam, học thuyết Khổng- Mạnh do các quan thái thú Trung Quốc áp đặt cho ngƣời Việt
học. Đến thời Lý-Trần, khi nhà nƣớc Đại Việt giành lại độc lập, tự chủ, mở đầu kỷ nguyên mới
của lịch sử dân tộc thì tổ tiên ta chủ động du nhập học thuyết này
Khi đã đƣợc đông đảo dân chúng kể cả ngƣời mù chữ hâm mộ, coi trọng thì Nho học đƣợc gọi là
Nho giáo (hoặc Khổng giáo), đƣợc sùng bái nhƣ một tôn giáo.
Nho học gồm hai bộ sách cơ bản: Tứ thƣ (4 quyển) và Ngũ kinh (5 quyển).
Tứ thƣ gồm: Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh tử,
Ngũ kinh gồm: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân thu
Thử so sánh với các kinh điển khác (Ngũ kinh, Tứ thƣ):
Kinh Thi: thành tựu thi ca dân gian đầu tiên, sau này Đƣờng thi, từ Tống vƣợt qua (sau khi đã
tiếp thu nghệ thuật thi ca của Kinh thi).
Kinh Thƣ:“sử” thời truyền thuyết (Nghiêu, Thuấn, Vũ, Hạ, Thang,Chu) nêu gƣơng tiền nhân.
Kinh Dịch: sách triết học, sách bói. Ngày nay chỉ còn một số ít học giả Kinh Dịch ở Việt Nam
tiếp tục nghiên cứu Kinh Dịch ứng dụng trong việc phục vụ cho bộ phận nhỏ ngƣời hâm mộ (làm
nhà, xuất hành, đám cƣới, đám tang, tìm đất táng, xem hậu vận.v.v…) nhìn chung it phổ biến
trong cộng đồng.
Kinh Lễ: phần nghi lễ đã thay đổi nhiều qua các giai đoạn lịch sử, phần tinh thần đƣợc đúc kết
chuyển vào trong Luận ngữ (Lễ là xuất phát điểm và trung tâm của Khổng học).
Kinh Xuân thu: đã bị vƣợt qua bởi nhiều sử sách thời Hán về sau, mở đầu với “Lã thị Xuân
thu” (Lã Bất Vi chủ biên), Sử ký Tƣ Mã Thiên…
Mạnh tử thƣ: nội dung tập trung vào việc dạy dỗ khuyến cáo vua chúa, ít tính phổ biến cộng
đồng.
Đaị học: quan điểm tu thần, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Trung dung: quan điểm về ứng xử cân bằng trong cuộc sống.
Những điểm cơ bản của Đại học và Trung dung cũng đƣợc thể hiện trong Luận ngữ.
So sánh, đối chiếu các sách trên, nhận thấy Luận ngữ có tính bao quát nhiều sách khác, đại diện
cho bộ Tứ thƣ.
Nội dung Luận ngữ tập trung vào rèn luyện phẩm cách cá nhân và còn giữ gần nguyên vẹn giá trị
nhân văn cơ bản thời hiện đại.
4 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
Ngày nay chúng ta tiếp tục Luận ngữlà kế thừa một hệ thống đạo đức mẫu mực, toàn diện vốn
tồn tại cả nghìn năm. Chúng ta chỉ lƣợc bỏ các yếu tố lạc hậu, phục vụ cho việc giáo dục và tự
giáo dục trong thời kỳ hiện đại.
Nếu Ngũ kinh là “phần cứng” cần nắm vững thì Tứ thư là “phần mềm” nhằm vận dụng linh hoạt
vào thực tiễn.
Trong Ngũ kinh có hai tác phẩm quan trọng là Kinh Dịch và Kinh Thi (Kinh Thi đã đƣợc học
trong chƣơng trình đại học Ngữ văn rồi).
Trong Tứ thƣ, sách Luận ngữ đƣợc coi là then chốt bởi nó có khả năng bao quát hầu hết Tứ thƣ,
lại miêu tả đƣợc những hằng số của con ngƣời một cách độc đáo, sinh động và còn hứa hẹn sức
sống mãi về sau.
Các nhà văn hóa nổi tiếng nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Bà
Huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến…và nho sinh ViệtNamngót nghìn năm đều là
học trò Nho học.
Năm 1919 kỳ thi Hán học cuối cùng diễn ra ở Việt Nam.
Năm 1940 chính quyền thực dân Pháp xoá hẳn giờ học chữ Nho trong chƣơng trình trung học.
Nhƣng ngay năm 942, dƣới áp lực của giới trí thức tiến bộ và để tranh giành ảnh hƣởng với
ngƣời Nhật, ngƣời Pháp đã cho lập ra chuyên ban Cổ học Á Đông, học 6 năm với 5 tiết chữ Hán
/tuần ở bậc trung học. Sau Cách mạng tháng 8, trong vùng kháng chiến, bậc trung học cấp II
nhiều nơi vẫn học chữ Hán mỗi tuần 3 tiết, nhƣng sau đó thì lại bỏ. Đặc biệt đến năm 1950, khi
có cải cách giáo dục thì chữ Hán ở trường phổ thông bị bỏ hoàn toàn. Điều đó có nghĩa Nho học
cũng không còn được truyền bá chính thức nữa.
Tuy nhiên, có những gia đình nho phong tiếc rẻ vẫn lặng lẽ dạy con trẻ các bài học cơ bản rút
trong Luận ngữ, họ coi đó là cái gốc rễ văn hóa của con ngƣời phƣơng Đông, bất kể chế độ chính
trị thay đổi nhƣ thế nào.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết “Khổng tử, chúa Giê su, Các Mác, Tôn Dật Tiên
chẳng có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu
hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin
rằng nhất định họ sống chung với nhau rất hoàn mĩ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng
làm người học trò của các vị ấy”. (Trong cuốn“Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
Chủ tịch”, tác giả Trần Dân Tiên, đƣợc công bố là bút danh Hồ Chí Minh). Tuổi trẻ Nguyễn Tất
Thành đã từng là học trò của Nho giáo.
Trong Giáo trình TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH (Bộ Giáo dục Đào tạo, xuất bản 2009) dành cho
sinh viên cao đẳng, đại học, chƣơng 7 nêu tóm tắt quan điểm đạo đức cách mạng của Hố Chí
Minh gồm 3 điểm: 1/ Trung với nước, hiếu với dân. 2/ Cần, kiệm, liêm ,chính, chí công, vô tư 3/
Có tinh thần quốc tế trong sáng. Chúng tôi thấy 03 nội dung đó đều cơ bản xuất phát từ Luận
ngữ và học thuyết Nho gia với sự diễn đạt và vận dụng khác đôi chút.
5 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
Ngày nay trong việc xây dựng một nền văn hoá tiên tiến giữ vững bản sắc dân tộc, chúng ta cần
đãi cát tìm vàng, bảo tồn và trang bị tinh hoa truyền thống làm hành trang cho thế hệ trẻ đi vào
hiện đại. Trong hành trang văn hóa đó, có truyền thống Nho học – một bộ phận cơ bản của nền
văn hóa dân tộc Việt Nam. Trong công cuộc Đổi Mới hơn 20 năm qua, nhiều học giả đã lên tiếng
yêu cầu khôi phục dạy Hán văn trong trƣờng phổ thông trên nhiều diễn đàn, báo chí và một số
Hội thảo khoa học.
Giáo viên dạy Văn ở nƣớc ta đôi khi cần thiết vẫn nhắc đến Khổng tử và Nho học trong bài
giảng. Không chỉ vận dụng Nho học trong nghiên cứu văn học ViệtNamtrung đại, ngay cả văn
học hiện đại cũng không thể bỏ qua Nho học. Tuy nhiên nhiều ngƣời chỉ đọc sách của các nhà
nghiên cứu bình luận đánh giá ƣu điểm, nhƣợc điểm chung chung của Nho học mà chƣa đọc trực
tiếp tác phẩm của Khổng tử. Đọc lời văn Khổng tử, chúng ta sẽ thấy nhiều thú vị hấp dẫn hơn và
thu hoạch nhiều ích lợi khác trong nghiên cứu.
Luận ngữ - cuốn sách tiêu biểu của Nho học
Luận ngữ là một trong những giá trị quí báu độc đáo, tài sản chung của các nền văn hóa khu vực
đồng văn (Trung Quốc, Đài Loan, Triều Tiên, Hàn quốc, Nhật Bản và Việt Nam).
Luận ngữ ([1]) là sách do học trò và hậu thế ghi chép lại những lời nói, hành vi của Khổng tử,
học trò ông và ngƣời đƣơng thời.
Luận ngữ là sự tóm lƣợc những bài giảng, các buổi học và thuật lại nhiều sự việc, nét sinh hoạt
của thầy trò Khổng tử.
Sách gồm 20 thiên (tƣơng đƣơng với 20 chƣơng), mỗi thiên gồm nhiều bài. Cách đặt tên thiên:
lấy hai chữ xuất hiện đầu thiên làm tựa đề. Có lẽ thật khó đặt một cái tên bao quát nội dung
phong phú của thiên. Mỗi thiên có nhiều bài (mỗi bài chỉ là một câu nói, một đối thoại hoặc một
câu chuyện rất ngắn).
Toàn bộ Luận ngữ có 511 bài, chỉ là 511 câu nói, đối thoại, mẩu chuyện cực ngắn. Nội dung bao
trùm hầu hết những quan niệm về lễ, nhân, đức, trung, nghĩa, trí, tín, dũng, liêm, âm nhạc, văn
chƣơng. hội họa, những tình huống đối nhân xử thế đa dạng trong cuộc sống cho đến việc giải
trí, nghỉ ngơi, ăn uống. Qua những bài học ngắn gọn, hình ảnh ngƣời quân tử và tiểu nhân hiện
lên tƣơng phản rõ nét, trong đó tấm gƣơng vua hiền, quan chức mẫu mực và kẻ sĩ chân chính nổi
bật ở vị trí trung tâm của cuốn sách.
Đọc qua Luận ngữ, ta thấy nội dung các thiên dƣờng nhƣ rời rạc, không có liên hệ với nhau.
Thực ra, ngƣời quân tử chính là sợi chỉ đỏ kết nối, xuyên suốt tập sách. Chữ nhân (hai chữ:人,
仁) là phẩm chất của quân tử, khái niệm mở ra từ hẹp tới rộng, đến vô cùng.
Nội dung chính của Luận ngữ là Quân tử. Chữ Hiếu là điều kiện tiên quyết của quân tử.
Khổng tử coi chữ Hiếu ([2]) là điều kiện tiên quyết thì các vua chúa đời sau nhƣ Hán, Đƣờng,
Tống, Nguyên, Minh, Thanh đẩy nó xuống hàng thứ 2 và đặt chữ Trung (trung quân: trung
thành với nhà vua) lên hàng đầu.
6 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
Đọc sách này, ta hiểu đƣợc phẩm chất tƣ cách của thầy trò Khổng tử và những ngƣời khác. Đó là
những bài học thực tế, tránh đƣợc giáo điều. Luận Ngữ trình bày đạo quân tử qua lời nói và
những câu chuyện sinh động, không giảng lý thuyết dài dòng nhƣng rất ấn tƣợng, dễ hiểu. Nhân
vật chính là thầy Khổng tử với bao buồn, vui, lo âu, lạc quan, thất vọng. Thầy Khổng đôi khi
cũng mắc khuyết điểm nhƣng không giấu diếm.
Về phƣơng pháp giáo dục, Khổng tử thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy
thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi ngƣời. Có khi cùng một câu hỏi mà ông trả
lời cho mỗi ngƣời một cách khác nhau.
Luận ngữ có 5 mục tiêu giáo dục rõ rệt: Học làm ngƣời. Học làm công dân. Học làm quan. Học
làm vua. Học làm thầy giáo.
Đọc Luận ngữ rất khó hiểu thông nghĩa lý, bởi từ ngữ cổ và ngữ pháp cổ thô sơ. Vậy nên cần
phải có thầy ngồi trên giảng sách. Thầy giảng bằng kim văn (tiếng nói đƣơng thời) thì học trò
mới hiểu đƣợc. Thực ra, giảng bài tức là thầy đang “phiên dịch” cổ văn thành kim văn vậy. Lời
văn của Luận ngữ rất ngắn gọn, diễn giải minh bạch bằng tiếng ngày nay ắt phải dài dòng hơn.
Lời Khổng tử đƣợc dân gian coi nhƣ thành ngữ, tục ngữ khi truyền bá trong sinh hoạt.. Sau khi
“phiên dịch” cổ văn thành kim văn, thầy liên hệ với thực tế (tùy theo vốn sống của thầy) và cho
học trò thảo luận, tự liên hệ thực tế.
Ngay cả thầy giáo Trung Quốc ngày nay vẫn phải giảng (dịch) cổ văn cho học trò Trung Quốc,
cũng nhƣ thầy giáo phong kiến Việt Nam từng giảng sách cho học trò thời xƣa. Có lẽ đó là một lí
do của thành ngữ “Không thầy đố mày làm nên”.(Học trò Nho học thời Lý, Trần, Lê, Mạc,
Nguyễn đã rất khổ công khi học và làm bài thi bằng Hán văn. Trong số họ, có hơn 200 ngƣời
xuất sắc từng đƣợc cử đi làm sứ giả nƣớc Đại Việt sang Trung Quốc với hành trang Nho học
“đem chuông đi gõ xứ ngƣời”, khiến giới trí thức phong kiến Trung Hoa rất khâm phục trí tuệ
ViệtNam).
Sách Luận ngữ (cùng với sách khác bổ sung qua mỗi triều đại) đƣợc dạy trong các nhà trƣờng từ
thời nhà Hán, do học trò đời sau của Khổng tử sƣu tập lại, truyền đến đời Tống mới biên tập
thành sách. Những ngƣời biên soạn cố gắng giữ nguyên lời nói Khổng tử xƣa. Lời cổ nhân đƣợc
truyền bá nguyên văn, mang tính cổ kính thiêng liêng nên có sức thuyết phục hơn.
Luận ngữ là cuốn sách với lời văn giản dị, bề ngoài tƣởng nhƣ đọc để giải trí. Đây là cuốn sách
giáo khoa mở đầu cho truyền thống biên soạn sách học ở Trung Quốc về sau nhƣ Tam tự kinh,
Ngũ tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi. v.v…
Ngày nay bạn đọc có thể thấy vài điều trong Luận Ngữ đã lạc hậu, ta có thể phê phán, bỏ qua đi.
Chỉ giữ lại những bài học phù hợp hiện đại, đã trở thành hằng số của con ngƣời và xã hội.
Ngƣời Việt đã từng quen sử dụng khá nhiều “thành ngữ, tục ngữ” nhƣ:
Tứ hải giai huynh đệ (bốn bể đều là anh em)
Dục tốc bất đạt (muốn nhanh lại không đến / hỏng việc)
7 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
Nhân chi sơ, tính bản thiện (người mới sinh thì tính hiền lành)
Tam thập nhi lập, Tứ thập bất hoặc, Ngũ thập tri thiên mệnh…(Ba mươi tuổi lập thân, bốn
chục tuổi hết nghi ngờ, năm chục tuổi biết mệnh trời…)
Ôn cố tri tân (ôn cũ để biết mới)
Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã ! (thấy việc nghĩa không dám làm, chẳng phải người dũng)
Con chim sắp chết, tiếng kêu bi thƣơng, con ngƣời sắp chết thì lời nói phải.
(Tăng tử thuyết: Điểu chi thương tử, kỳ minh dã ai; Nhân chi thương tử, kỳ ngôn dã thiện)
Ba ngƣời cùng đi, tất có ngƣời là thầy ta…(Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên…)
Hậu sinh khả úy…(Kẻ sinh sau thật đáng sợ… nhưng bốn năm chục tuổi mà chưa làm nên
công tích gì thì không đáng sợ nữa). v..v….
Thực ra, đó là những lời nói của Khổng tử trong Luận ngữ.
Ngƣời Trung Quốc ngày nay đang cố gắng lập ra các “Viện Khổng tử” ở ngoài nƣớc để phổ biến
tinh hoa Nho học ra khắp năm châu. Sức ảnh hƣởng của Khổng tử trên thế giới nhƣ thế nào, thật
khó biết rõ. Có thể nêu một ví dụ. Barack Obama, tổng thống Mỹ trong bài diễn văn giao lƣu với
thầy trò trƣờng đại học Cairo, Ai cập có câu: There is also one rule that lies at the heart of every
religion – that we do unto others as we would have them do unto us. (President Obama’s speech
at Cairo University dated: 4.6.2009).
Nghĩa là:“Một nguyên tắc trọng tâm của mọi tôn giáo là đừng làm cho ngƣời khác điều gì mình
không muốn ngƣời khác làm cho mình”. Do tâm đắc ý kiến của Khổng tử mà không biết xuất xứ,
tổng thống Obama gọi câu ấy là “Một nguyên tắc trọng tâm của mọi tôn giáo”. Câu ấy trong
cuốn Luận ngữ là “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân: Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho
người khác” đƣợc lặp lại hai lần (ở thiên 12 Nhan Uyên và thiên 15 Vệ Linh công).
Chúng tôi mạnh dạn đƣa Luận ngữ vào bộ môn Văn học Trung Quốc để bàn về nội dung “Văn”
của sách. (Môn Ngữ văn Hán Nôm sẽ giải quyết vấn đề “Ngữ”: ngữ pháp, từ pháp cổ văn).
Biên dịch quyển Luận ngữ đƣa vào tủ sách điện tử của trƣờng Đại học An Giang, trƣớc hết
chúng tôi muốn dành cho sinh viên Ngữ văn và sau nữa hi vọng rằng Luận ngữ là của mọi
ngƣời; nhƣ giới nho sĩ Việt Nam ngày xƣa từng suy tôn Khổng tử là vạn thế sƣ biểu: ngƣời thầy
tiêu biểu của muôn đời.
Đại học An Giang 2010-2011
Biên giả
8 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
1. 学而 Học nhi
第一篇thiên 1
bài 61
1.1
子曰: 学而时习之,不亦悅乎?
有朊自远方来,不亦乐乎?
人不知 而不愠,不亦君子乎 ?
Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ ?
Hữu bằng tự viễn phƣơng lai, bất diệc lạc hồ ?
Nhân bất tri nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ ?
Khổng tử nói: Học thì phải luyện tập, chẳng vui lắm sao ?
Có bạn hữu nơi xa đến thăm, chẳng mừng lắm sao?
Ngƣời chẳng hiểu ta mà ta không buồn giận họ, thế chẳng phải ngƣời quân tử ƣ ?
(Lời bàn: Bài học đầu tiên, Khổng tử nói về niềm vui “học và hành”, niềm vui đón “bạn phƣơng
xa” và…nhắc đừng buồn khi có ngƣời hiểu lầm ta)
1.2
有子曰:“兲为人也孝悌, 而好犯上者,鲜矣; 不好犯上,而好作乱者,未之有也。君子务本,本立
而道生。孝悌也者, 兲为仁之本与?”
Hữu tử viết: Kỳ vi nhân dã hiếu đễ, nhi hiếu phạm thƣợng giả, tiển hĩ; bất hiếu phạm thƣợng, nhi
hiếu tác loạn giả, vị chi hữu dã. Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh. Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân
chi bản dữ !
9 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
Hữu tử nói: Ngƣời biết hiếu thuận với cha mẹ, kính trọng ngƣời lớn tuổi hơn mà lại thích
cãi cọ xung đột mạo phạm cấp trên là hiếm có; Ngƣời không thích mạo phạm cấp trên mà
lại thích làm loạn là không có. Quân tử chuyên tâm lo cái gốc tu thân thì đạo lập thân tự
nhiên phát sinh. Hiếu và đễ là cái gốc của đạo Nhân.
(Chú thích: Hữu tử tức Hữu Nhƣợc, tự Tử Hữu ngƣời nƣớc Lỗ, là học trò Khổng tử. Hiếu: hiếu
thảo với cha mẹ, đễ : tôn trọng anh, chị, các bề trên)
1.3
子曰:巧言,令色,鲜矣仁。
Tử viết: Xảo ngôn, lệnh sắc, tiển hĩ nhân.
Khổng tử nói: Ngƣời ƣa dùng lời nói khéo hay, làm vẻ mặt hiền lành, nhƣ vậy chƣa hẳn là
ngƣời có lòng nhân.
(Chú thích: Chữ “lệnh sắc” nghĩa là “làm ra vẻ mặt theo ý muốn”, “giả bộ”, thay vì vẻ mặt thể
hiện tự nhiên tâm trạng bên trong. Theo mạch câu văn, tạm dịch là “làm vẻ mặt hiền lành”).
1.4
曾子曰: 吾日三省吾身。为人谋而不忠乎?与朋友交而不信乎?传,不习乎?
Tăng tử viết: Ngô nhật tam tỉnh ngô thân. Vị nhân mƣu nhi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao nhi
bất tín hồ ? Truyền, bất tập hồ ?
Tăng tử nói: Tôi mỗi ngày xét mình ba điều. Mƣu việc cho ngƣời khác thành tâm chƣa ?
Kết giao bạn bè đã giữ chữ tín chƣa ? Kiến thức thầy truyền dạy, đã luyện tập chƣa ?
(Chú thích: Tăng tử tức Tăng Sâm, học trò giogỉ của Khổng tử, sau này viết ra sách “Đại học”.
Phần cuối có ngƣời dịch là: Kiến thức ta sắp đi truyền dạy, đã luyện tập chƣa? )
1.5
子曰:道千乘之国,敬事而信,节用而爱人,使民以时
Tử viết: Đạo thiên thừa chi quốc, kính sự nhi tín, tiết dụng nhi, ái nhân, sử dân dĩ thời.
Khổng tử nói: Lãnh đạo quốc gia có nghìn cỗ xe, phải giữ điều tín mọi việc, tiết kiệm chi
tiêu, yêu mến dân, sử dụng sức dân theo thời gian thích hợp
(Chú thích: Vua quan sử dụng sức dân cần phải nghĩ tới mùa vụ, tránh sai khiến tùy tiện khiến
nông dân lỡ thời vụ).
10 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
1.6
子曰: 弟子,入则孝, 出则悌,谨而信,汎爱众而亲仁,行有餘力,则以学文
Tử viết: Đệ tử, nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân, hành hữu dƣ
lực, tắc dĩ học văn.
Khổng tử nói: Này trò, ở nhà phải hiếu thuận với cha mẹ, ra ngoài tôn kính ngƣời hơn tuổi,
cẩn thận giữ điều tín, gần gũi thân cận với ngƣời nhân đức, đƣợc nhƣ vậy mà còn dƣ sức
thì học tập tri thức nữa.
1.7
子夏曰: 贤贤易色;事父母能竭其力;事君,能致兲身;与朊友交,言而有信。虽曰未学, 吾
必謂之学矣.
Tử Hạ viết: Hiền hiền dịch sắc; sự phụ mẫu năng kiệt kỳ lực; sự quân, năng trí kỳ thân; dữ bằng
hữu giao ngôn nhi hữu tín. Tuy viết vị học, ngô tất vị chi học hĩ.
Tử Hạ nói: Tôn trọng hiền tài hơn nữ sắc; đối đãi với cha mẹ tận lực; thờ vua liều chết
quên thân, giao lƣu bạn hữu nói lời tin cậy. Ngƣời nhƣ vậy tuy không đi học, ta coi là ngƣời
có học.
(Chú thích: Tử Hạ là học trò của Khổng tử. Ngƣời có học (trí thức), là ngƣời có bốn phẩm chất
trên, không cần bằng cấp học vị)
1.8
子曰: 君子,不重则不威;学则不固。主忠信。无友不如己者;过则勿惮改
Tử viết: Quân tử, bất trọng tắc bất uy, học tắc bất cố. Chủ trung tín. Vô hữu bất nhƣ kỷ giả; Quá
tắc vật đạn cải.
Khổng tử nói: Quân tử thiếu thái độ trang trọng thì không uy nghiêm; học cũng không
củng cố đƣợc kết quả. Quân tử lấy chữ tín và trung làm chủ. Không kết bạn với ngƣời
không giống mình. Có sai lầm không ngại sửa chữa.
(Lời bàn: Bạn đọc thử nghĩ xem có nên “kết bạn với ngƣời không giống mình” ?)
11 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
1.9
曾子曰:慎终追远,民德归厚矣 。
Tăng tử viết: Thận chung truy viễn, dân đức quy hậu hĩ.
Tăng tử nói: Cẩn thận lo tang lễ cha mẹ, thƣờng tƣởng nhớ tổ tiên xƣa, dân chúng cảm đức
mà theo về.
(Lời bàn: “truy viễn” (nhớ ngƣời xƣa) rất đa nghĩa. Tƣởng nhớ ông bà tổ tiên, nhớ họ hàng nơi
xa, nhớ lời dạy của bậc thánh nhân thời trƣớc… Đây là lời khuyên dành cho vua chúa, quan
chức)
1.10
子禽问於子贡曰:夫子至於是邦也,必闻其政,求之与,抑与之与? ”
子贡曰:“夫子温,良, 恭,俭,让以得之。夫子之求之也,兲诸异乎人之求之与 ?”
Tử Cầm vấn ƣ Tử Cống viết: Phu tử chí ƣ thị bang dã; tất văn kỳ chính, cầu chi dự, ức dữ chi dự
?
Tử Cống viết: Phu tử ôn, lương, cung, kiệm, nhượng dĩ đắc chi. Phu tử chi cầu chi dã, kỳ chƣ dị
hồ nhân chi cầu chi dự ?
Tử Cầm hỏi Tử Cống rằng: Thầy Khổng đi qua các nƣớc đều đƣợc tham dự chính sự ở các
nƣớc ấy. Là do thầy cầu xin hay do ngƣời ta yêu cầu ?
Tử Cống đáp: Thầy Khổng có đức tính ôn, lƣơng, cung, kiệm, nhƣờng nhịn nên đƣợc nhƣ
vậy. Cách cầu việc của thầy khác với lối xin việc của ngƣời khác.
(Chú thích: ôn: ôn hòa, lƣơng: hiền dịu, cung: cung kính, kiệm: tiết kiệm, nhƣợng: nhường nhịn.
Tử Cầm và Tử Cống có tên là Đoan Mộc Tứ đều là học trò Khổng tử).
1.11
子曰:“父在,观其志;父没,观其行;三年无改於父之道,可谓孝矣”
Tử viết: Phụ tại, quan kỳ chí; phụ một, quan kỳ hành; Tam niên vô cải ƣ phụ chi đạo, khả vị hiếu
hĩ.
12 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
Khổng tử nói “Khi cha còn tại thế, chú ý quan sát chí hƣớng của cha, khi cha mất đi thì suy
ngẫm về cách hành sự của cha. Nếu ba năm sau khi cha mất, ngƣời con không thay đổi lời
dạy của cha thì gọi là có hiếu”.
1.12
有子曰:“礼之用,和为贵。先王之道,斯为美。小大由之,有所不行。知和而和,不以礼节之,亦
不可行也”.
Hữu tử viết: Lễ chi dụng, hòa vi quí. Tiên vƣơng chi đạo, tƣ vi mĩ, tiểu đại do chi, hữu sở bất
hành. Tri hòa nhi hòa, bất dĩ lễ tiết chi, diệc bất khả hành dã.
Hữu tử nói: Giữ lễ mà đạt đƣợc sự hài hòa là quí. Đạo trị nƣớc của vua chúa thời trƣớc,
việc lớn nhỏ đều tuân theo sự hài hòa. Nhƣng nếu chỉ biết hài hòa, không lấy chữ “lễ” để
ràng buộc thì việc nào cũng không xong.
1.13
有子曰:“信近於义,言可复也;恭近於礼,远耻辱也;人不失其亲,亦可宗也”
Hữu tử viết: Tín cận ƣ nghĩa, ngôn khả phục dã; cung cận ƣ lễ, viễn sỉ nhục dã; Nhân bất thất kỳ
thân, diệc khả tông dã.
Hữu tử nói: Giữ đƣợc chữ tín là gần với nghĩa, lời hứa có thể thực hiện đƣợc. Cung kính là
gần với chữ Lễ, vậy tránh xa đƣợc điều sỉ nhục; Vì không mất đi sự thân cận lễ nghĩa đó
nên giữ đƣợc tông pháp.
1.14
子曰:“君子食无求饱,居无求安,敏於事而慎於言, 就有道而正焉,可谓好学也已”
Quân tử thực vô cầu bão, cƣ vô cầu an, mẫn ƣ sự nhi thận ƣ ngôn, tựu hữu đạo nhi chính yên,
khả vị hiếu học dã dĩ.
Quân tử ăn không cầu no, chỗ ở không cầu an toàn quá mức, làm việc minh mẫn mà lời nói
thận trọng, là kẻ có đạo chính đáng, có thể gọi là ngƣời hiếu học.
(Lời bàn: “an cƣ” nghĩa rất rộng: nơi ở an toàn, nghiêm mật lại thoải mái rộng rãi, cầu kỳ, ở đƣợc
lâu, ít thay đổi chỗ… Quan điểm “cƣ vô cầu an” của quân tử trái với phƣơng châm thông thƣờng
“an cƣ lạc nghiệp”)
13 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
1.15
子贡曰: “贫而无谄,富而无骄,何如?”
子曰: “可也。未若贫而乐,富而好礼者也”.
子贡曰:“诗”云,„如切如磋!如琢如磨”, 兲斯之谓与?”
子曰:“赐也!始可与言“诗”已矣,告诸往而知来者。”
Tử Cống viết “Bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu, hà nhƣ ? ”.
Tử viết “Khả dã. Vị nhƣợc bần nhi lạc, phú nhi hiếu lễ giả dã”.
Tử Cống viết “Thi vân, nhƣ thiết nhƣ tha ! Nhƣ trác nhƣ ma, kỳ tƣ chi vị dƣ ?”.
Tử viết “Tứ dã ! Thỉ khả dữ ngôn “Thi” dĩ hĩ, cáo chƣ vãng nhi tri lai giả”.
Tử Cống hỏi “Nghèo khổ mà không nịnh bợ, giàu có mà không kiêu ngạo, nhƣ vậy đƣợc
chƣa ?”. Khổng tử đáp “Nhƣ vậy là đƣợc, nhƣng không bằng nghèo mà lạc quan, giàu mà
chuộng học lễ nghĩa”.
Tử Cống hỏi “Kinh Thi viết: nhƣ cắt nhƣ gọt (xƣơng, sừng), nhƣ mài nhƣ giũa (đá ngọc) để
tạo ra vật quí, là nói điều này phải chăng ?”.
Khổng tử nói “Tứ này, có thể bắt đầu bàn luận Kinh Thi đƣợc rồi, bởi vì nói cho ngƣơi việc
quá khứ, ngƣơi đã hiểu việc tƣơng lai”.
(Lời bàn: “Nghèo lạc quan” nghĩa là vẫn ƣớc mơ, phấn đấu làm giàu chứ không phải lạc quan
chịu nghèo. “Nhƣ cắt nhƣ gọt, nhƣ mài nhƣ giũa” ý nói việc học hành rèn luyện phải kiên trì và
khéo léo).
1.16
子曰:“不患人之不已知,患不知人也”.
Tử viết: Bất hoạn nhân chi bất kỷ tri, hoạn bất tri nhân dã.
Khổng tử nói: Không sợ ngƣời không hiểu ta, chỉ sợ (ta) không hiểu ngƣời.
14 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
Hết thiên 1
1. 2. 为政Vi chính
第二篇thiên 2
24 bài
2.1
子曰:为政以德,譬如北辰, 居兲所而众星兯之
Tử viết: Vi chính dĩ đức, thí nhƣ Bắc thần, cƣ kỳ sở nhi chúng tinh cung chi
Khổng tử nói: Cầm quyền phải có đức, giống nhƣ sao Bắc đẩu ở nơi cố định cho các ngôi
sao vây quanh.
2.2
子曰:诗三百,一言以蔽之,曰:“思无邪”
Tử viết: Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: “Tƣ vô tà”.
Khổng tử nói: Kinh Thi có 300 bài, một câu tóm tắt là: không có suy nghĩ tà xấu ở trong.
2.3
子曰:道之以政,齐之以刑,民免而无耻,道之以德, 齐之以礼,有耻且格 .
Tử viết: Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ, đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ
thả cách.
Khổng tử nói: Lãnh đạo dân bằng pháp luật đều dùng hình phạt, dân có thể tránh đƣợc sai
phạm nhƣng mất lòng tự trọng. Lãnh đạo dân bằng đức độ và lễ khiến ngƣời ta biết xấu hổ
mà tự cảm hóa.
2.4
子曰:吾十亓而志於学,三十而立,四十而不惑,亓十而知天命,六十而耳顺,七十而从心所欲
不逾矩.
Tử viết:
Ngô thập ngũ nhi chí ƣ học,
tam thập nhi lập,
tứ thập nhi bất hoặc,
15 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
ngũ thập nhi tri thiên mệnh,
lục thập nhi nhĩ thuận,
thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ..
Khổng tử nói:
Lúc mƣời lăm tuổi ta đã lo nỗ lực học tập.
Ba mƣơi tuổi đã xác định đƣợc chí hƣớng.
Bốn mƣơi tuổi đã hiểu đƣợc lý sự, không còn bị lầm lẫn.
Năm mƣơi tuổi đã hiểu đƣợc mệnh trời.
Sáu mƣơi tuổi nghe ngƣời khác nói đều thuận tai cả.
Bảy mƣơi tuổi có thể theo lòng mong muốn mà không vƣợt ra ngoài giới hạn.
(Lời bàn
15 tuổi mà chƣa có chí học hành thì nên chọn con đƣờng lao động chân tay thích hợp.
Chƣa tới 30 tuổi mà chƣa ổn định nghề nghiệp thì vẫn chƣa đáng lo, đừng sốt ruột…
40 tuổi: hiểu rõ mọi sự, không nhầm lẫn nữa.
50 tuổi: nhìn rõ quãng đời còn lại, ung dung đi tới tƣơng lai (tri thiên mệnh)
60 tuổi: hiểu và đồng tình với lời nói đúng, biết lời nói sai mà không bực bội.
70 tuổi: nhu cầu cá nhân đƣợc thực hiện, tự hài lòng mà không quá trớn, vẫn phù hợp khách
quan.
Khổng tử phân chia cuộc đời của một ngƣời bình thƣờng thành 6 giai đoạn, có tính chất tƣơng
đối…Nếu ngƣời có năng lực (lại gặp hoàn cảnh thuận lợi) thì 6 cột mốc sẽ đến sớm hơn. Trái lại,
ngƣời yếu kém hoặc ít may mắn thì mỗi cột mốc đến muộn hơn.
2.5
孟懿子问孝,子曰:“无违”, 樊迟御,子告之曰:“孟孙问孝於我, 我对曰无违”
樊迟曰:“何谓也”. 子曰:“生,事之以礼;死,葬之以礼,祭之以礼”
Mạnh Ý tử vấn hiếu, Tử viết “Vô vi”,
16 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
Phàn Trì ngữ, Tử cáo chi viết: “Mạnh Tôn vân hiếu ƣ ngã, ngã đối viết vô vi. Phàn Trì viết: “Hà
vị dã ?”. Tử viết “Sinh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ, tế chi dĩ lễ.”
Mạnh Ý tử hỏi về đạo Hiếu. Khổng tử nói “Không đƣợc làm trái (lễ)”.
Phàn Trì đánh xe cho Khổng tử, Khổng tử kể lại rằng Mạnh Ý tử có hỏi ta về đạo hiếu, ta
trả lời là không đƣợc vi phạm lễ. Phàn Trì hỏi lại “Nhƣ thế là ý gì ?”.
Khổng tử nói “Cha mẹ lúc còn sống, ta phải theo lễ mà phụng sự. Cha mẹ chết, phải theo lễ
mà an táng, theo lễ mà cúng tế”.
2.6
孟武伯问孝,子曰:父母唯兲疾之忧.
Mạnh Vũ Bá vấn hiếu, Tử viết: “Phụ mẫu duy kỳ tật chi ƣu”
Mạnh Vũ Bá hỏi về đạo Hiếu.
Khổng tử đáp: Cha mẹ chỉ lo sợ con mắc bệnh tật mà thôi.
(Lời bàn: Con phải giữ gìn thân thể (do cha mẹ sinh ra) khỏe mạnh mới là có Hiếu. Trái lại,
không biết giữ sức khỏe thân thể cũng là bất Hiếu).
2.7
子游问孝,子曰: 今之孝者,是谓能养。至於犬马,皆能有养,不敬,何以别乎?
Tử Du vấn hiếu, Tử viết: “Kim chi hiếu giả, thị vị năng dƣỡng. Chí ƣ khuyển mã, giai năng hữu
dƣỡng, bất kính, hà dĩ biệt hồ ?”.
Tử Du hỏi về đạo Hiếu.
Khổng tử đáp: Thông thƣờng, những ngƣời có thể nuôi dƣỡng đƣợc cha mẹ thì đƣợc gọi là
có hiếu. Đến cả giống chó ngựa thì ngƣời ta vẫn nuôi đƣợc, nếu không kính trọng cha mẹ
trong khi nuôi dƣỡng, thì có khác chi nuôi chó ngựa ?!
2.8
子夏问孝,子曰:色难。有事,弟子朋兲劳;有酒食,先生馔,曾是以为孝乎?
Tử Hạ vấn hiếu, Tử viết: Sắc nan. Hữu sự, đệ tử phục kỳ lao; hữu tửu thực, tiên sinh soạn, tằng
thị dĩ vi hiếu hồ ?
17 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
Tử Hạ hỏi về đạo Hiếu. Khổng tử nói: Khó nhất là con cái có giữ đƣợc vẻ hòa vui thƣờng
xuyên lúc phụng dƣỡng cha mẹ hay không. Khi có việc cực nhọc, con cái chủ động làm
thay, có gì ngon mang cho cha mẹ ăn…Nhƣ thế chắc gì đã là có hiếu?
2.9
子曰: 吾与回言,终日不违,如愚。退而省兲私,亦足以发,回也不愚
Tử viết: Ngô dữ Hồi ngôn, chung nhật bất vi, nhƣ ngu. Thoái nhi tỉnh kỳ tƣ, diệc túc dĩ phát, Hồi
dã bất ngu.
Khổng tử nói: Ta tham dự việc học của Nhan Hồi, suốt ngày nó không làm trái, nhƣ kẻ ngu
đần. Nhƣng khi ngẫm kỹ thấy Hồi phát huy thực hành đầy đủ, nhƣ thế Hồi không phải kẻ
ngu.
(Chú thích: Nhan Hồi là học trò quí nhất của đức Khổng)
2.10
子曰:视其所以,观其所由,察其所安, 人焉廋哉?人焉廋哉?
Tử viết: Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an, nhân yên sƣu tai ? Nhân yên sƣu tai ?
Khổng tử nói: Nhìn kỹ cách ngƣời làm, xét xem ngƣời làm vì cái gì, xem kỹ ngƣời làm có
vui vẻ không, nhƣ thế ngƣời ta có gì mà giấu đƣợc ? Có gì mà giấu đƣợc ?
2.11
子曰:温故而知新,可以为师矣
Tử viết: “Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sƣ hĩ ”
Khổng tử nói: Ôn tập cái cũ để hiểu cái mới, có thể làm thầy đƣợc rồi.
2.12
子曰:君子不器
Tử viết: Quân tử bất khí.
Khổng tử nói: Quân tử chẳng phải nhƣ công cụ
18 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
(Lời bàn: “công cụ” chỉ làm một việc. Khổng tử đòi hỏi quân tử phải làm đƣợc việc khác khi cần
thiết)
2.13
子贡问君子。子曰:先行其言而后从之
Tử Cống vấn quân tử. Tử viết: Tiên hành kì ngôn nhi hậu tòng chi.
Tử Cống hỏi về quân tử. Khổng tử đáp: Trƣớc hết, thực hành lời mình nói, sau mới nói
ra.
(Chú thích: Tử Cống là học trò giỏi của Khổng tử).
2.14
子曰:君子周而不比,小人比而不周
Tử viết: “Quân tử chu nhi bất tỉ, tiểu nhân tỉ nhi bất chu”.
Khổng tử nói: Quân tử đoàn kết rộng rãi mọi ngƣời chứ không kéo bè cánh. Tiểu nhân kéo
bè kết cánh mà không đoàn kết.
2.15
子曰:学而不思则罔,思而不学则殆
Tử viết: Học nhi bất tƣ tắc võng, tƣ nhi bất học tắc đãi.
Khổng tử nói: Học mà không suy nghĩ sẽ trở nên rối rắm, chỉ suy nghĩ mà không học sẽ rất
mỏi mệt.
2.16
子曰:攻乎异端,斯害也已
Tử viết: Công hồ dị đoan, tƣ hại dã dĩ.
Khổng tử nói: Phá bỏ mê tín dị đoan, cái hại sẽ tiêu tan.
2.17
子曰: 由,诲女,知之乎?知之为知之,不知为不知,是知也
Tử viết: Do, hối nhữ, tri chi hồ ? Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã.
Khổng tử nói: Này trò Do, ta dạy ngƣơi, có hiểu bài không ? Biết thì nói là biết, không biết
thì nói không biết. Đó là biết vậy.
2.18
19 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net
子张学干禄, 子曰:多闻阙疑,慎言兲余,则寡尤;多见阙殆,慎行其余,则寡悔。言寡尤,行
寡悔,禄在兲中矣
Tử Trƣơng học can lộc, Tử viết: “Đa văn khuyết nghi, thận ngôn kỳ dƣ, tắc quả vƣu; Đa kiến
khuyết đãi, thận hành kỳ dƣ, tắc quả hối. Ngôn quả vƣu, hành quả hối, lộc tại kỳ trung hĩ ”.
Tử Trƣơng hỏi cách học cầu bổng lộc, Khổng tử nói: Cần nghe nhiều, điều nghi ngờ giữ lại,
điều gì hiểu rõ thì nói ra, nhƣ thế ít sai lầm. Phải quan sát nhiều, giữ lại điều nghi ngờ đừng
làm, chỉ làm cái điều chắc chắn, nhƣ vậy ít hối hận. Nói năng ít sai, làm ít hối hận thì bổng
lộc nằm trong ấy rồi.
2.19
哀公问曰:“何为则民服?”. 孔子对曰:举直错诸枉,则 民朋;举枉错诸直,则民不服。
Lỗ Ai Công vấn viết: “Hà vi tắc dân phục?”. Khổng tử đối viết: “Cử trực thố chƣ uổng, tắc dân
phục; Cử uổng thố chƣ trực, tắc dân bất phục.”.
Lỗ Ai Công (vua nƣớc Lỗ, quê Khổng tử) hỏi: Làm sao cho dân phục ?
Khổng tử đáp: Bổ nhiệm ngƣời ngay thẳng trên kẻ ác, ắt dân phục. Xếp kẻ ác trên ngƣời
ngay thẳng thì dân không phục.
2.20
季康子问:使民敬、忠以劝,如之何?.
子曰:临之以庄,则敬;孝慈,则忠;举善而教不能,则劝
Quí Khang tử vấn: “Sử dân kính, trung dĩ khuyến, nhƣ chi hà ?”.
Khổng tử viết: “Lâm chi dĩ trang, tắc kính; Hiếu từ, tắc trung; Cử thiện nhi giáo bất năng, tắc
khuyến”.
Quí Khang tử hỏi: Làm thế nào cho dân kính trọng, trung thành với ta và tự khuyên bảo
nhau ? Khổng tử đáp: Đối xử mọi việc trang trọng, dân sẽ kính trọng; Hiếu thảo với cha
mẹ, hiền từ với mọi ngƣời thì dân sẽ trung thành. Sử dụng ngƣời tốt và giáo dục ngƣời
kém, dân chúng sẽ tự khuyên bảo nhau.
(Chú thích: Quí Khang tử là đại thần nƣớc Lỗ)
20 Luận Ngữ - Khổng Tử -- Phùng Hoài Ngọc biên giả --- www.vietnamvanhien.net