Nội dung text: Việt nam sử lược (trần trọng kim)
Trần Trọng Kim
Lời tựa
Sử là sách không những là chỉ để ghi chép những công việc đã qua mà thôi,
nhưng lại phải suy xét việc gốc ngọn, tìm tòi cái căn nguyên những công
việc của người ta đã làm để hiểu cho rõ những vận hội trị loạn của một
nước, những trình độ tiến hoá của một dân tộc. Chủ đích là để làm cái
gương chung cổ cho người cả nước được đời đời soi vào đấy mà biết cái sự
sinh hoạt của người trước đã phải lao tâm lao lực những thế nào, mới chiếm
giữ được cái địa vị ở dưới bóng mặt trời này.
Người trong nước có thông hiểu những sự tích nước mình mới có lòng yêu
nước yêu nhà, mới biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng, để vun đắp
thêm vào cái nền xã hội của tổ tiên đã xây dựng nên mà để lại cho mình.
Bởi những lẽ ấy cho nên phàm dân tộc nào đã có đủ cơ quan và thể lệ làm
cho một nước độc lập, thì cũng có sử cả. Nước Việt ta khởi đầu có sử từ
đời nhà Trần, vào quãng thế kỷ thứ XIII. Từ đó trở đi nhà nào lên làm vua
cũng trọng sự làm sử. Nhưng cái lối làm sử của ta theo lối biên niên của
Tàu, nghĩa là năm nào tháng nào có chuyện gì quan trọng thì nhà làm sử
chép vào sách. Mà chép một cách rất vắn tắt cốt để ghi lấy chuyện ấy mà
1
thôi, chứ không giải thích cái gốc ngọn và sự liên can việc ấy với việc khác
là thế nào.
Nhà làm sử lại là người làm quan, vua sai coi việc chép sử, cho nên dẫu thế
nào sự chép sử cũng không được tự do, thường có ý thiên vị về nhà vua
thành ra trong sử chỉ cần chép những chuyện quan hệ đến nhà vua, hơn là
những chuyện quan hệ đến sự tiến hoá của nhân dân trong nước. Vả, xưa
này ta vẫn chịu quyền chuyên chế, vẫn cho việc nhà vua là việc nước. Cả
nước chỉ cốt ở một họ làm vua, cho nên nhà làm sử cứ theo cái chủ nghĩa
ấy mà chép sử, thành ra sử đời nào cũng chỉ nói chuyện những vua đời ấy
mà thôi. Bởi vậy xem sử ta thật là tẻ, mà thường không có ích lợi cho sự
học vấn là mấy.
Sử của mình viết đã không hay, mà người mình lại không mấy người biết
sử. Là vì cái cách học tập của mình làm cho người mình không có thể biết
được sử nước mình. Bất kỳ lớn nhỏ, hễ ai cắp quyển sách đi học thì chỉ học
sử Tàu, chứ không học sử nước nhà. Rồi thơ phú văn chương gì cũng lấy
điển tích ở sử Tàu, chứ chuyện nước mình là nhất thiết không nói đến. Ấy
cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng
người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hoá, chứ tự mình thì
không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: “Việc
nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!”
Cái sự học vấn mình như thế, cái cảm tình của người trong nước như thế,
bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?
Nhưng dẫu thế nào mặc lòng, nước ta đã có sử ta thì cũng có thể bởi đó mà
biết được những sự đã qua ở nước ta, và có thể bởi đó mà khảo cứu được
nhiều việc quan hệ đến vận mệnh nước mình từ xưa đến nay xoay vần ra
làm sao. Hiềm vì sử nước ta thì làm bằng chữ nho cả, mà chữ nho thì từ rày
trở đi chắc rồi mỗi ngày một kém đi. Hiện nay số người đọc được chữ nho
còn nhiều, mà trong nước còn không có mấy người biết truyện nước nhà,
2
huống chi mai sau này chữ nho bỏ không học nữa, thì sự khảo cứu về
những việc quan hệ đến lịch sử nước mình sẽ khó biết bao nhiêu!
Nay nhân sự ở nước ta đã thay đổi, chữ quốc ngữ đã phổ thông ở trong
nước, chi bằng ta lấy tiếng nước nhà mà kể truyện nước nhà, ta soạn ra bộ
Việt Nam sử lược, xếp đặt theo thứ tự, chia ra từng thời đại, đặt thành
chương, thành mục rõ ràng, để ai ai cũng có thể xem được sử, ai ai cũng có
thể hiểu được chuyện, khiến cho sự học sử của người mình được tiện lợi
hơn trước.
Bộ Việt Nam sử lược này, soạn giả chia ra làm 5 thời đại. Thời đại thứ nhất
là Thượng cổ thời đại, kể từ họ Hồng Bàng cho đến hết đời nhà Triệu.
Trong thời đại ấy, trừ chương thứ III, bàn về xã hội nước Tàu trước đời nhà
Tần, phần nhiều là những chuyện huyễn hoặc truyền thuyết cả. Những nhà
chép sử đời trước cũng theo tục truyền mà chép lại, chứ không có di tích gì
mà khảo cứu cho đích xác. Tuy vậy, soạn giả cũng cứ theo sử mà chép lại,
rồi cũng phê bình một đôi câu để tỏ cho độc giả biết rằng những chuyện ấy
không nên vội cho là xác thực.
Thời đại thứ nhì là Bắc thuộc thời đại, kể từ khi vua Vũ Đế nhà Hán lấy đất
Nam Việt của nhà Triệu, cho đến đời Ngũ quí, ở bên ta có họ Khúc và họ
Ngô xướng lên sự độc lập. Những công việc trong thời đại ấy, thì sử cũ của
nước ta chép sơ lược lắm. Vì rằng trong thời đại Bắc thuộc, người mình
chưa được tiến hoá, sự học hành còn kém, sách vở không có, cho nên về
sau những nhà làm sử của ta chép đến thời đại này cũng không kê cứu vào
đâu được, chỉ theo sử Tàu mà chép lại thôi. Vả, người Tàu lúc ấy vẫn cho
mình là một sử biên địa dã man, thường không ai lưu tâm đến, cho nên
những chuyện chép ở trong sử, cũng sơ lược lắm, mà đại để cũng chỉ chép
những chuyện cai trị, chuyện giặc giã, chứ các công việc khác thì không
nói đến.
3
Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy
dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có
một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của
Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc
nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của Tàu. Cái ảnh
hưởng ấy lâu ngày thành ra cái quốc tuý của mình, dẫu ngày nay có muốn
trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà
chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến
cải mới có công hiệu vậy.
Thời đại thứ ba là Thời đại tự chủ, kể từ nhà Ngô, nhà Đinh cho đến Sơ
diệp nhà Hậu Lê. Nước mình từ thời đại ấy về sau là một nước độc lập, tuy
đối với nước Tàu vẫn phải xưng thần và chịu cống, nhưng kỳ thực là không
ai xâm phạm đến cái quyền tự chủ của mình.
Buổi đầu, nhà Đinh, nhà Lê mới dấy lên, còn phải xây đắp cái nền tự chủ
cho vững bền, phải lo sửa sang việc võ bị để chống với kẻ thù nghịch, cho
nên sự văn học không được mở mang lắm. Về sau đến đời nhà Lý, nhà
Trần, công việc ở trong nước đã thành nền nếp, kẻ cừu địch ở ngoài cũng
không quấy nhiễu nữa, lại có nhiều vua hiền tôi giỏi nối nhau mà lo việc
nước, cho nên từ đó trở đi việc chính trị, việc tôn giáo và việc học vấn mỗi
ngày một khai hoá ra, làm cho nước ta thành một nước có thế lực, bắc có
thể chống được với Tàu, nam có thể mở rộng thêm bờ cõi. Nhà Lý và nhà
Trần lại có công gây nên cái quốc hồn mạnh mẽ, khiến cho về sau đến đời
Trần mạt, nhân khi họ Hồ quấy rối, người Tàu đã toan đường kiêm tính,
người mình biết đồng tâm hiệp lực mà khôi phục lại giang sơn nhà. Kế đến
nhà Lê, trong khoảng một trăm năm về buổi đầu, nước mình cũng có thể
gọi là thịnh trị, nhất là về những năm Quang Thuận (1460-1469) và Hồng
Đức (1470-1479), thì sự văn trị và võ công đã là rực rỡ lắm. Nhưng về sau
gặp những hôn quân dung chúa, việc triều chính đổ nát, kẻ gian thần dấy
4
loạn. Mối binh đao gây nên từ đó, người trong nước đánh giết lẫn nhau,
làm thành ra nam bắc chia rẽ, vua chúa tranh quyền. Ấy thật là một cuộc
biến lớn ở trong nước vậy.
Thời đại thứ tư là Nam Bắc phân tranh, kể từ khi nhà Mạc làm sự thoán
đoạt cho đến nhà Tây Sơn. Trước thì nam Lê, bắc Mạc, sau thì Nguyễn
nam, Trịnh bắc, sự cạnh tranh càng ngày càng quyết liệt, lòng ghen ghét
càng ngày càng dữ dội. Nghĩa vua tôi mỏng mảnh, đạo cương thường
chểnh mảng: nước đã có vua lại có chúa. Trong Nam ngoài Bắc mỗi nơi
một giang sơn, công việc ở đâu chủ trương ở đấy. Tuy vậy việc sửa đổi ở
ngoài Bắc cũng có nhiều việc hay, mà việc khai khẩn ở trong Nam thật là
ích lợi. Nhưng cuộc thành bại ai đâu dám chắc, cơn gió bụi khởi đầu từ núi
Tây Sơn, làm đổ nát cả ngôi vua cùng nghiệp chúa. Anh em nhà Tây Sơn
vẫy vùng không được 20 năm, thì bản triều nhà Nguyễn lại trung hưng lên,
mà đem giang sơn về một mối, lập thành cái cảnh tượng nước Việt Nam ta
ngày nay vậy.
Thời đại thứ năm là Cận kim thời đại, kể từ vua Thế tổ bản triều cho đến
1
cuộc bảo hộ1 bây giờ. Vua Thế tổ khởi đầu giao thiệp với nước Pháp-lan-
tây để mượn thế lực mà đánh Tây Sơn. Nhưng về sau vì những vua con
cháu Ngài đổi chính sách khác, nghiêm cấm đạo Thiên chúa, và đóng cửa
không cho người ngoại quốc vào buôn bán. Những đình thần thì nhiều
người trí lự hẹp hòi, cứ nghiễm nhiên tự phụ, không chịu theo thời mà thay
đổi. Đối với những nước ngoại dương, thì thường hay gây nên sự bất hoà.
Một phần vì những chính sách ấy cho nên mới thành ra có cuộc bảo hộ
ngày nay.
Đại khái đó là những mục lớn trong những phần mà soạn giả đã theo từng
thời đại để đặt ra. Soạn giả đã cố sức xem xét và góp nhặt những sự ghi
1
Thực chất, theo chính sự hiện nay, đây là cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp (BT).
5
2
chép ở các sách chữ nho và chữ Pháp , hoặc những chuyện rải rác ở các dã
sử, rồi đem trích bỏ những sự huyền hoặc đi mà soạn ra bộ sách này, cốt để
người đồng bang ta biết được chuyện nước nhà mà không tin nhảm những
sự huyễn hoặc. Thời đại nào nhân vật ấy và tư tưởng ấy, soạn giả cứ bình
tĩnh cố theo cho đúng sự thực. Thỉnh thoảng có một đôi nơi soạn giả có
đem ý kiến riêng của mình mà bàn với độc giả, thí dụ như chỗ bàn về danh
hiệu nhà Tây Sơn thì thiết tưởng rằng sử là của chung cả quốc dân, chớ
không phải riêng cho một nhà một họ nào, cho nên mới phải lấy công lý mà
xét đoán mọi việc và không vị tình riêng để phạm đến lẽ công bằng vậy.
Độc giả cũng nên biết cho rằng bộ sử này là bộ Sử Lược chỉ cốt ghi chép
những chuyện yếu trọng để hãy tạm giúp cho những người hiếu học có sẵn
quyển sách mà xem cho tiện. Còn như việc làm thành ra bộ sử thật là đích
đáng, kê cứu và phê bình rất tường tận, thì xin để dành cho những bậc tài
danh sau này sẽ ra công mà giúp cho nước ta về việc học sử. Bây giờ ta
chưa có áo lục, ta hãy mặc tạm áo vải, tuy nó xấu xí nhưng nó có thể làm
cho ta đỡ rét. Nghĩa là ta hãy làm thế nào cho những thiếu niên nước ta
ngày này ai cũng có thể biết một đôi chút sự tích nước nhà, cho khỏi tủi
quốc hồn. Ấy là cái mục đích của soạn giả, chỉ có thế thôi. Nếu cái mục
đích ấy mà có thể tới được thì tưởng bộ sách này là bộ sách có ích vậy.
TRẦN TRỌNG KIM
2
Những sách mà soạn giả đã dùng để kê cứu sẽ kể riêng ra ở chỗ khác để độc giả có nghi hoặc điều gì, thì có thể tìm
những sách ấy tra soát lại.
6
NƯỚC VIỆT NAM
Quốc hiệu. Vị trí và diện tích. Địa thế. Chủng loại. Gốc tích.Người Việt
Nam Sự mở mang bờ cõi Lịch sử Việt Nam
QUYỂN I THƯỢNG CỔ THỜI ĐẠI
Chương I: HỌ HỒNG BÀNG (2879-258 tr. Tây lịch)
Chương II: NHÀ THỤC (257-207 tr. Tây lịch)
Chương III: XÃ HỘI NƯỚC TÀU VỀ ĐỜI TAM ĐẠI VÀ ĐỜI NHÀ
TẦN
Chương IV: NHÀ TRIỆU (207-111 tr. Tây lịch)
QUYỂN II BẮC THUỘC THỜI ĐẠI
Chương I: BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT (111 tr. Tây lịch – 39 s.
3
Tây lịch)
Chương II: TRƯNG VƯƠNG (40-43)
Chương III: BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI (43-544)
Chương IV: NHÀ TIỀN LÝ (544-602)
Chương V: BẮC THUỘC LẦN THỨ BA (603-939)
Chương VI: KẾT QUẢ CỦA THỜI BẮC THUỘC
QUYỂN III TỰ CHỦ THỜI ĐẠI
(Thời kỳ thống nhất)
3
Tức 111 trước Tây lịch - 39 sau Tây lịch ("tr." là viết tắt của "trước"; "s." là viết tắt của "sau").
7
Chương I: NHÀ NGÔ (939 – 965)
Chương II: NHÀ ĐINH (968 – 980)
Chương III: NHÀ TIỀN LÊ (980 – 1009)
Chương IV: NHÀ LÝ (1010 - 1225)
Lý Thái Tổ
Lý Thái Tông
Lý Thánh Tông
Lý Nhân Tông
Chương V: NHÀ LÝ (1010 - 1225)
Lý Thần Tông
Lý Anh Tông
Lý Cao Tông
Lý Huệ Tông
Lý Chiêu Hoàng
Chương VI: NHÀ TRẦN (1225 - 1400)
Trần Thái Tông
Trần Thánh Tông
Trần Nhân Tông
Chương VII: GIẶC NHÀ NGUYÊN (1284 - 1288)
Sài Thung sang sứ An Nam
Trần Di Ái theo nhà Nguyên
Thoát Hoan sang đánh lần thứ nhất
Trần Hưng Đạo Vương quân thua về Vạn Kiếp
Thành Thăng Long thất thủ
Toa Đô đánh Nghệ An
Hưng Đạo Vương đem vua về Thanh Hóa
8
Trận Hàm Tử quan
Trận Chương Dương độ
Trận Tây Kết
Trận Vạn Kiếp
9
NƯỚC VIỆT NAM
Quốc hiệu
Vị trí và diện tích
Địa thế
Chủng loại
Gốc tích
Người Việt Nam
Sự mở mang bờ cõi
Lịch sử Việt Nam
QUỐC HIỆU
Nước Việt Nam ta về đời Hồng Bàng (2879-258 tr. Tây lịch) gọi là Văn
Lang, đời Thục An Dương Vương (257-207 tr. Tây lịch?) thì gọi là Âu Lạc.
Đến nhà Tần (246-206 tr. Tây lịch) lược định phía nam thì đặt làm Tượng
quận, sau nhà Hán (202 tr. Tây lịch - 220 sau Tây lịch) dứt nhà Triệu, chia
đất Tượng quận ra làm ba quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Đến
cuối nhà Đông Hán, vua Hiến đế đổi Giao Chỉ làm GIao Châu. Nhà Đường
(618-907) lại đặt là An Nam Đô hộ phủ.
Từ khi nhà Đinh (968-980) dẹp xong loạn Thập nhị Sứ quân, lập nên một
nước tự chủ, đổi quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Vua Lý Thánh Tông đổi lại là
Đại Việt, đến đời vua Lý Anh Tông, nhà Tống bên Tàu mới công nhận là
An Nam quốc.
Đến đời vua Gia Long thống nhất được cả Nam Bắc (1802), lấy lẽ rằng
Nam là An Nam, Việt là Việt Thường mới đặt quốc hiệu là Việt Nam. Vua
Minh Mệnh lại cải làm Đại Nam.
10
Quốc hiệu nước ta đã thay đổi nhiều lần, tuy rằng ngày nay ta vẫn theo thói
quen dùng hai chữ An Nam, nhưng vì hai chữ ấy có ngụ ý phải thần phục
nước Tàu, vậy thì ta nên nhất định lấy tên Việt Nam mà gọi nước nhà.
VỊ TRÍ VÀ DIỆN TÍCH
Nước Việt Nam ở về phía đông nam châu Á Tế Á, hẹp bề ngang, dài bề
dọc, hình cong như chữ S, trên phía Bắc và dưới phía Nam phình rộng ra,
khúc giữa miền Trung thì eo hẹp lại.
Đông và Nam giáp bể Đông (BT); Tây giáp Ai Lao và Cao Miên; Bắc giáp
nước Tàu, liền với tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam.
Diện tích cả nước rộng chừng độ 312.000 ki lô mét vuông chia ra như sau
này:
Bắc Việt: 105.000 km2
Trung Việt: 150.000 km2
Nam Việt: 57.000 km2
ĐỊA THẾ
Nước ta hiện nay chia làm ba cõi: Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Đất
Bắc Việt có sông Hồng Hà (tức sông Nhị Hà) và sông Thái Bình. Mạn trên
gọi là Thượng du lắm rừng nhiều núi, ít người ở. Mạn dưới gọi là Trung
châu, đất đồng bằng, người ở chen chúc đông lắm.
Đất Trung Việt thì chỉ có một giải ở men bờ bể, còn ở trong có núi Trường
Sơn chạy dọc từ Bắc Việt vào gần đến Nam Việt, cho nên người chỉ ở được
mạn gần bể mà thôi.
Đất Nam Việt thì ở vào khúc dưới sông Mê Kông (tức là sông Cửu Long),
lại có sông Đồng Nai chảy ở mé trên, cho nên đất tốt, ruộng nhiều, dân gian
trù phú và dễ làm ăn hơn cả.
11
CHỦNG LOẠI
Người Việt Nam có nhiều dân tộc ở, như là ở về miền thượng du Bắc Việt
thì có dân Thái (tức là Thổ), Mường, Mán, Mèo; ở về miền rừng núi Trung
Việt thì có dân Mọi và Chàm (tức là Hời); ở về miền Nam Việt thì có dân
Mọi, Chàm, Chà Và và Khách, vân vân. Những dân ấy ở trong ba nơi tất cả
đến non một triệu người. Còn thì dân tộc Việt Nam ở hết cả.
Số người Việt Nam ở trong ba nơi có thể chia ra như sau này:
Bắc Việt: 8.700.000 người
Trung Việt: 5.650.000 người
4
Nam Việt: 4.616.000 người
Cả thảy cộng lại được độ chừng non 19 triệu người.
GỐC TÍCH
Theo ý kiến những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và
người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt Nam theo sông
Hồng Hà lần xuống phía đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ, còn
người Thái thì theo sông Mê Kông xuống, lập ra nước Tiêm La (tức là Thái
Lan) và các nước Lào.
Lại có nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất
nước Tàu có giống Tam Miêu ở, sau giống Hán tộc (tức là người Tàu bây
giờ) ở phía tây bắc đến đánh đuổi người Tam Miêu đi, chiếm giữ vùng
sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam
Miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ.
Những ý kiến ấy là theo lý mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái gì làm
chứng cho đích xác. Chỉ biết rằng người Việt Nam ta trước có hai ngón
chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi là Giao Chỉ; mà xem các
4
Số này là theo sách Địa dư của ông H. Russier (1939) chép lại chứ không chắc đã đúng số nhất định của người mình.
12
loài khác, không có loài nào như vậy, thì tất ta là một loài riêng, chứ không
phải là loài Tam Miêu.
Dẫu người mình thuộc về chủng loại nào mặc lòng, về sau người Tàu sang
cai trị hàng hơn một nghìn năm, lại có khi đem sang nước ta hơn bốn mươi
vạn binh, chắc là nòi giống cũ của mình cũng đã lai đi nhiều rồi, mới thành
ra người Việt Nam ngày nay.
NGƯỜI VIỆT NAM
Người Việt Nam thuộc về loại da vàng, nhưng mà người nào phải đi làm
lụng dầm mưa dãi nắng lắm, thì nước da ngăm ngăm đen, người nào nhàn
nhạ phong lưu, ở trong nhà luôn, thì nước da trăng trắng như màu ngà cũ.
Trạc người thì thấp nhỏ hơn người Tàu, mà lăn lẳn con người, chứ không to
béo. Mặt thì xương xương, trông hơi bèn bẹt, trán thì cao và rộng, mắt thì
hơi xếch về đàng đuôi, hai gò má thì cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dày, răng thì
to mà lại nhuộm đen. Râu thì thưa mà ít, tóc thì nhiều và dài, đen và hơi
cứng. Dáng điệu đi đứng thì nhẹ nhàng và xem ra bộ vững vàng chắc chắn.
Áo quần thì dài rộng, đàn ông thì búi tóc và quấn khăn vành rây, áo mặc
dài quá đầu gối, tay áo thì chật, ống quần thì rộng. Đàn bà ở Bắc Việt và
phía bắc Trung Việt thì đội khăn, mà ở chỗ thành thị thì mặc quần, còn ở
nhà quê thì hay mặc váy. Ở phía nam Trung Việt và Nam Việt thì đàn bà
mặc quần cả, và búi tóc, chứ không đội khăn bao giờ.
Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt Nam có cả các tính tốt và các
tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay,
nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự
lễ phép, mến điều đạo đức, lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường
cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt, và
hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát và muốn sự hoà bình, nhưng
mà đã đi ra trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.
13
Đàn bà thì hay làm lụng và đảm đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ
mọi việc mà lại biết lấy việc gia đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi
con, thường giữ được các cái đức tính rất quí là tiết, nghĩa, cần, kiệm.
Người Việt Nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong tục, nói một thứ
5
tiếng cùng giữ một kỷ niệm, thật là cái tính đồng nhất của một dân tộc từ
đầu nước đến cuối nước.
SỰ MỞ MANG BỜ CÕI
Người nòi giống Việt Nam ta mỗi ngày một nẩy nở ra nhiều, mà ở phía bắc
thì đã có nước Tàu cường thịnh, phía tây thì lắm núi nhiều rừng, đường đi
lại không tiện, cho nên mới theo bờ bể lần xuống phía nam, mở ra bờ cõi
bây giờ.
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Từ khi người Việt Nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy nghìn năm,
phải người Tàu cai trị mấy lần, chịu khổ sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau
lại lập được cái nền tự chủ, và vẫn giữ đươc cái tính đặc biệt của giống
mình, ấy là đủ tỏ ra rằng khí lực của người mình không đến nỗi kém hèn
cho lắm.
Vậy ghi chép những cơ hội gian truân, những sự biến cố của nước mình đã
trải qua, và kể những công việc của người mình làm từ đời nọ qua đời kia,
để cho mọi người trong nước đều biết, ấy là sách Việt Nam sử.
Nay ta nên theo từng thời đại mà chia sách Việt Nam sử ra 5 quyển để cho
tiện sự kê cứu:
Quyển I: Thượng cổ thời đại.
5
Tuy rằng mỗi nơi có một ít tiếng thổ âm riêng và cái giọng nói nặng nhẹ khác nhau, nhưng đại để thì vẫn là một thứ tiếng mà thôi.
14
Quyển II: Bắc thuộc thời đại.
Quyển III: Tự chủ thời đại.
Quyển IV: Nam bắc phân tranh thời đại.
Quyển V: Cận kim thời đại.
15
16
Chương I
HỌ HỒNG BÀNG
(2879-258 tr. Tây lịch)
Họ Hồng Bàng
Nước Văn Lang
Truyện cổ tích về đời Hồng Bàng; Phù Đổng Thiên Vương; Sơn
Tinh Thuỷ Tinh
HỌ HỒNG BÀNG
Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi
tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp
một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh
truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi là vua phương bắc, và phong cho
Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là
Xích Quỉ.
Bờ cõi nước Xích Quỉ bấy giờ phía bắc giáp Động Đình hồ (Hồ Nam), phía
nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên),
phía đông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỉ vào quãng năm nhâm tuất
(2879 trước Tây lịch?) và lấy con gái Động Đình quân là Long nữ đẻ ra
Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ ra một lần được
6
một trăm người con trai . Lạc Long quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là dòng dõi
Long quân, nhà ngươi là dòng dõi thần tiên, ăn ở với nhau lâu không được;
6
Có sách chép là Âu Cơ đẻ ra một trăm cái trứng nở ra một trăm con.
17
nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 đứa ta
đem xuống bể Nam Hải.
Gốc tích truyện này có lẽ là từ Lạc Long quân về sau, nước Xích Quỉ chia
ra những nước gọi là Bách Việt. Bởi vậy ngày nay đất Hồ Quảng (tỉnh Hồ
Nam, tỉnh Quảng Đông và tỉnh Quảng Tây) còn xưng là đất Bách Việt. Đấy
cũng là một điều nói phỏng, chứ không có lấy gì làm đích xác được.
NƯỚC VĂN LANG
Lạc Long Quân phong cho người con trưởng sang làm vua nước Văn Lang,
xưng là Hùng Vương.
Cứ theo sử cũ thì nước Văn Lang chia ra làm 15 bộ:
1. Văn Lang (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên).
2. Châu Diên (Sơn Tây).
3. Phúc Lộc (Sơn Tây).
4. Tân Hưng (Hưng Hoá - Tuyên Quang).
5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng).
6. Vũ Ninh (Bắc Ninh) .
7. Lục Hải (Lạng Sơn).
8. Ninh Hải (Quảng Yên).
9. Dương Tuyền (Hải Dương).
10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình).
11. Cửu Chân (Thanh Hoá).
12. Hoài Hoan (Nghệ An).
13. Cửu Đức (Hà Tĩnh).
14. Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị).
15. Bình Văn (?).
18
Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (bây giờ ở vào địa hạt huyện Bạch
Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), đặt tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc
tướng, con trai vua gọi là Quan lang, con gái vua gọi là Mị nương, các quan
7
nhỏ gọi là Bồ chính . Quyền chính trị thì cứ cha truyền con nối, gọi là phụ
đạo.
Về đời bấy giờ, sử Tàu có chép rằng năm tân mão (1109 tr. Tây lịch), đời
vua Thành Vương nhà Chu có nước Việt Thường ở phía nam xứ Giao Chỉ
sai sứ đem chim bạch trĩ sang cống, nhà Chu phải tìm người làm thông
ngôn mới hiểu được tiếng, và ông Chu Công Đán lại chế ra xe chỉ nam để
đem sứ Việt Thường về nước. Vậy đất Việt Thường và đất Giao Chỉ có
phải là đất của Hùng Vương lúc bấy giờ không?
Họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời, đến năm quí mão (285 trước Tây lịch)
thì bị nhà Thục lấy mất nước.
Xét từ đời Kinh Dương Vương đến đời Hùng Vương thứ 18, cả thảy 20 ông
vua, mà tính từ năm nhâm tuất (2879) đến năm quí mão (258 trước Tây
lịch) thì vừa được 2622 năm. Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì được
non 150 năm! Dẫu là người đời thượng cổ nữa, thì cũng khó lòng mà có
nhiều người sống lâu được như vậy. - Xem thế thì đủ biết truyện đời Hồng
Bàng không chắc là chuyện xác thực.
TRUYỆN CỔ TÍCH VỀ ĐỜI HỒNG BÀNG
Sử chép rằng đời Hùng Vương thứ nhất, người nước Văn Lang làm nghề
chài lưới, cứ hay bị giống thuồng luồng làm hại, vua mới bắt dân lấy chàm
8
vẽ mình để những giống ấy tưởng là đồng loại không làm hại nữa . Sử lại
7
Bây giờ còn có nơi gọi chánh tổng là Bồ đinh, chắc là bởi Bồ chính mà ra.
8
Sử chép rằng người Việt Nam ta có thói vẽ mình mãi đến đời vua Anh Tông nhà Trần mới bỏ.
19
chép rằng thuyền của ta ở đằng mũi thường hay làm hai con mắt, cũng có ý
để cho các thứ thuỷ quái ở sông ở bể không quấy nhiễu đến.
Trong đời Hùng Vương lại có hai truyện mà ngày nay người ta thường hay
nói đến, là truyện Phù Đổng Thiên Vương và truyện Sơn tinh, Thuỷ tinh.
Phù Đổng Thiên Vương. Đời Hùng Vương thứ 6 có đám giặc gọi là giặc
Ân, hùng mạnh lắm, không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao trong nước
để tìm người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ
Võ NInh (nay là huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh), có đứa trẻ xin đi đánh
giặc giúp vua. Sứ giả về tâu vua, vua lấy làm lạ, cho đòi vào chầu. Đứa trẻ
ấy xin đúc cho một con ngựa và cái roi bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc xong
thì đứa trẻ ấy vươn vai một cái, tự nhiên người cao lớn lên một trượng, rồi
nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc.
Phá được giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn thì biến đi mất. Vua
nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng, về sau phong là Phù Đổng
9
Thiên Vương .
Truyện này là truyện tục truyền như vậy, chứ không có lẽ tin là sự thực
được. Hoạ chăng đời bấy giờ có người tướng giỏi, đánh được giặc, về sau
người ta nhớ ơn làm đền thờ thì hợp lẽ hơn. Hiện bây giờ có đền thờ ở làng
Gióng tức là làng Phù Đổng. Năm nào đến mồng 8 tháng tư cũng có hội vui
lắm, tục gọi là đức Thánh Gióng.
Truyện Sơn tinh, Thuỷ tinh. Tục truyền rằng vua Hùng Vương thứ 18 có
người con gái là tên Mị Nương, nhan sắc tuyệt trần. Sơn tinh và Thủy tinh
đều muốn hỏi làm vợ. Hùng Vương hẹn rằng ngày hôm sau ai đem đồ lễ
9
Có người chép truyện này nói rằng: Giặc Ân là quân của nhà Ân bên Tàu sang đánh nước ta. Nói như thế thật là một điều lầm. Về
đời nhà Ân nước Tàu chỉ ở vào mạn sông Hoàng Hà là đất tỉnh Hà Nam, Trực Lệ, Sơn Tây và Thiểm Tây bây giờ mà thôi. Còn
những đất ở bên này sông Trường Giang là man di hết cả. Từ Trường Giang sang đến Bắc Việt ta xa cách bao nhiêu đường đất. Dẫu
lúc ấy ở bên ta có họ Hồng Bàng làm vua nữa, thì chắc cũng chưa có kỷ cương gì, có lẽ cũng giống như một người làm quan lang
trên Mường mà thôi, thế thì đã có giao thiệp gì với nhà Ân mà đánh nhau. Vả lại, sử Tàu cũng không có chỗ nào chép đến truyện
ấy. Vậy thì lấy lẽ gì mà nói rằng giặc Ân là người nhà Ân bên Tàu?
20